Trong lịch sử quân sự, trừ một số
ngoại lệ như một bên tham chiến bại trận và chấp nhận đầu hàng; còn lại, phần
lớn việc kết thúc một cuộc chiến tranh đều phải chịu sự tác động của một số
nhân tố chính như: So sánh tương quan thế và lực trên chiến trường; tính toán
chiến lược và nước cờ của các bên tham chiến; sự tác động của nhân tố quốc tế.
Việc kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp tuy cũng
phải chịu sự chi phối của các nhân tố này, song nó lại có những đặc điểm rất
riêng, rất khác với cách kết thúc của các cuộc chiến tranh khác.
Tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử viên
tướng “4 sao” H.Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với
một nhiệm vụ quan trọng là cố gắng đạt được một chiến thắng quân sự có ý nghĩa
quyết định trên chiến trường để “tìm kiếm một lối thoát danh dự” cho nước Pháp.
Ngày 24/7/1953, một kế hoạch quân sự mang tên “Navarre” chính thức được Hội
đồng Quốc phòng Pháp phê duyệt, theo đó nó sẽ được thực hiện trong vòng 18
tháng và sẽ chia làm hai bước: Bước 1: Trong Thu-Đông 1953 và Xuân 1954 chủ
trương tránh giao chiến lớn với Việt Minh trên chiến trường miền bắc; tiến công
bình định miền nam, miền trung Đông Dương, xóa bỏ vùng tự do Liên khu 5.
Bước 2: Ra quân đánh lớn trên chiến
trường chính miền bắc để chứng tỏ cho Việt Minh thấy rằng Pháp có thừa khả năng
giải quyết vấn đề quân sự để buộc họ phải ngồi vào bàn thương lượng. Đây được
coi là nỗ lực cuối cùng của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Họ
tin rằng với Kế hoạch Navarre, thắng lợi quân sự của người Pháp đã ở trong tầm
tay.
Trong khi đó, tại căn cứ địa Việt Bắc,
ngay từ trung tuần tháng 1/1953, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
tư họp bàn về Phương hướng chiến lược trong Thu-Đông 1953-1954 đã xác định
phương hướng “tạm thời “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” để phân tán lực lượng
địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do” (1).
Quân
ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954, đồng thời
quyết định mở Chiến dịch Điện Biên phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập
đoàn cứ điểm này. Ảnh: Tư liệu
Tiếp đó, Hội nghị Bộ Chính trị (tháng
9/1953) đã thông qua Đề án tác chiến của Tổng Quân ủy, trong đó xác định cụ thể
hướng tiến công chiến lược trong Thu-Đông 1953-1954 sẽ là Tây Bắc. Điều khá lý
thú là trong Kế hoạch Navarre cũng như Đề án tác chiến của Tổng Quân ủy đều
không xuất hiện cụm từ “Điện Biên Phủ”. Tuy nhiên, số phận của Kế hoạch
Navarre, thực tế, đã được định đoạt từ cuộc họp ở Tỉn Keo (An toàn khu Định
Hóa, Thái Nguyên) này.
Đêm 20/11/1953, phát hiện Đại đoàn 316
tiến quân lên Tây Bắc, Bộ chỉ huy quân Pháp vội vàng cho sáu tiểu đoàn nhảy dù
xuống Điện Biên Phủ bởi theo họ “chỉ có chiếm đóng Điện Biên Phủ mới bảo vệ
được Lai Châu và cả địa bàn chiến lược Thượng Lào”. Chỉ trong một thời gian
ngắn, Pháp đã biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với ba phân
khu, 49 cứ điểm chia làm tám cụm, tập trung khoảng 16 nghìn quân (bảy phần mười
tổng số quân dù ở Đông Dương). Việc quân Pháp nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ
là “cơ hội lớn” cho ta thực hiện những mục tiêu chiến lược trong Đông-Xuân
1953-1954.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp trao lá cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh tặng các đơn vị lập công. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng
định sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: Tư
liệu/TTXVN
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua
Kế hoạch tác chiến và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ; thành lập Bộ chỉ
huy Chiến dịch do Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư
Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ. Như vậy, Điện Biên Phủ đã trở thành “điểm hẹn
lịch sử”, tâm điểm của cuộc đấu trí, đấu lực giữa hai “Bộ thống soái” trong mùa
xuân 1954. Không phải ngẫu nhiên mà khi giao nhiệm vụ cho Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng đây là một trận đánh rất quan
trọng, có ý nghĩa nhiều mặt về chính trị, quân sự và ngoại giao nên chỉ được
đánh thắng; chắc thắng thì đánh, không chắc thắng thì không đánh!
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”, hậu phương vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu
IV, Liên khu V, vùng du kích và căn cứ du kích ở Bắc Bộ... đã tập trung mọi sức
lực, của cải cho mặt trận Điện Biên Phủ: Huy động 260.000 dân công, 20.991 xe
đạp thồ, đưa ra mặt trận hơn hai vạn tấn lương thực, thực phẩm các loại (2).
Bằng những biện pháp chiến lược, chiến dịch đầy sáng tạo và hiệu quả, trải qua
ba đợt tiến công kéo dài 56 ngày đêm, bộ đội ta đã cô lập và lần lượt tiêu diệt
từng cứ điểm, cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ.
Một ngày sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, Hội nghị Geneva bàn về vấn đề Đông Dương chính thức khai mạc. Như vậy,
phải sau “Sự kiện Điện Biên Phủ” thì cơ hội cho một diễn đàn quốc tế về vấn đề
chấm dứt chiến tranh Đông Dương mới thật sự đến, cho dù ngay từ tháng 11/1953,
trả lời phỏng vấn của báo Expreesen (Thụy Điển) về triển vọng giải quyết vấn đề
hòa bình ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ thiện chí của Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sẵn sàng đàm phán với Pháp để tìm kiếm giải pháp
hòa bình trên cơ sở Pháp phải thật sự tôn trọng và công nhận quyền độc lập, chủ
quyền của Việt Nam. Tuyên bố của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thu
hút sự chú ý của quốc tế, đặc biệt là ở Pháp - nơi mà dư luận đang sục sôi hối
thúc Chính phủ nhanh chóng đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh để tìm giải pháp
kết thúc chiến tranh.
Trải qua 75 ngày đêm với 31 phiên họp
toàn thể, Hội nghị Geneva kết thúc với một Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Việt Nam đến dự hội nghị trong tư thế
của người chiến thắng và giải pháp Geneva tuy bao gồm cả vấn đề chính trị và
quân sự, nhưng nó đã không phản ánh đầy đủ những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam
giành được trên chiến trường, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ. Điều này
cũng dễ hiểu vì Hội nghị Geneva là một diễn đàn quốc tế do các nước lớn sắp
đặt, quyết định thành phần, thời gian, bước đi và thậm chí là cả kết quả. Tại
diễn đàn này, sự thỏa hiệp của các nước lớn đã đưa đến một sự ràng buộc trách
nhiệm có phần “lỏng lẻo” giữa các bên tham dự và việc Mỹ không chịu ký vào Bản
tuyên bố cuối cùng của Hội nghị đã tạo ra “cái cớ” để họ thực hiện ý đồ thay
chân Pháp nhảy vào Việt Nam. Kết cục của “hậu” Geneva là Tổng tuyển cử đã không
diễn ra và nhân dân Việt Nam buộc phải đi tiếp chặng đường 21 năm trường kỳ
kháng chiến với bao tổn thất, hy sinh để giành lại nền độc lập trọn vẹn, thu
giang sơn về một mối.
Ngày
20/7/1954, Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu (hàng ngồi thứ hai từ trái sang)
thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định
đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia
cũng được ký kết, tại Hội nghị Geneva (Thụy Sĩ). Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Hội
nghị Geneva về Đông Dương tại Thụy Sĩ (năm 1954). Ảnh: Tư liệu/TTXVN
Hiệp định Geneva tuy chưa phản ánh đầy
đủ những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên chiến trường, nhưng một điều cực
kỳ quan trọng không thể phủ nhận là Hiệp định Geneva đã buộc thực dân Pháp phải
kết thúc chiến tranh, công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Dẫu
đất nước còn bị chia cắt nhưng chúng ta đã có được một miền bắc giải phóng, làm
cơ sở để xây dựng thành hậu phương chiến lược lớn cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kéo hồi
chuông báo sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân lúc bấy giờ, được mệnh danh là chủ
nghĩa thực dân cũ”... Với nước ta, “chiến thắng Điện Biên Phủ đánh dấu một cái
mốc cực kỳ quan trọng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, hoàn thành sự
nghiệp giành độc lập và tự do, thống nhất nước nhà. Chiến thắng Điện Biên Phủ
đã đưa đến Hội nghị Giơnevơ và Hiệp định Giơnevơ với những cái được và cái chưa
được của nó đối với dân tộc Việt Nam ta. Nó lập lại hòa bình, một nền hòa bình
không vững chắc bởi đế quốc Mỹ không ký Hiệp định Giơnevơ và nuôi tham vọng
thay Pháp ở miền nam chuẩn bị một cuộc chiến tranh mới” (3).
Chiều
7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến-Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt
Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Ảnh: Tư liệu
Lịch sử không có “nếu như”, song nếu
không có chiến thắng Điện Biên Phủ và những thắng lợi quân sự khác trên chiến
trường thì rất khó để có được những kết quả tích cực trên bàn đàm phán. Đúng
như Đảng ta đã khẳng định: “Đạt được Hiệp định nói trên là một thắng lợi vĩ đại
của nhân dân và quân đội ta đoàn kết, nhất trí, anh dũng chiến đấu dưới sự lãnh
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng” (4).
Với thắng lợi này, cách mạng Việt Nam
cũng như sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới - thời
kỳ ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập, dân chủ trong toàn quốc.
------------------------------
[1] Văn kiện Đảng Toàn tập. Nxb CTQG.H. T.14. Tr.130.[2] Tổng kết cuộc Kháng chiến chống Thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học. Nxb CTQG. H.1996. tr.202.[3] Phạm Văn Đồng: Điện Biên Phủ - Một chiến thắng vượt qua không gian và thời gian. T/C LSQS. Số 1/1994.Tr.1.[4] Văn kiện Đảng Toàn tập. Nxb CTQG.H.2001. T.15. Tr.233.
Theo: nhandan.vn