image banner
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Giải pháp nâng cao tính thuế của người nộp thuế

Tuân thủ thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cả cơ quan thuế và người nộp thuế (NNT), bởi việc đăng ký thuế, kê khai thuế, đóng thuế và cộng thủ công tác báo cáo thuế mang lại nhiều hiệu quả trong việc sử dụng và quản lý, như giảm thời gian làm thủ tục hành chính thuế, giảm chi phí cho DN và giải quyết tình trạng làm giả giả, tiết kiệm chi phí xã hội và nâng cao ý thức NNT. Bài viết sử dụng số thứ cấp giai đoạn 2017-2023 của Tổng thuế bằng phương pháp thống kê, so sánh và khảo sát, để tập trung đánh giá, phân tích trạng thái, từ đó đề xuất biện pháp trong thời gian tới .

Anh-tin-bai

Thực đơn tổng hợp của NNT

Thuế là nguồn thu quan trọng của NSNN, vì công việc đảm bảo được tặng kèm thủ tục tự nguyện của NNT là một trong những cơ sở yêu cầu đặt ra đối với định nghĩa chính sách thuế và hoạt động thực thi luật thuế theo kế hoạch. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ thuế ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến những lợi ích vật chất của NNT, nên họ không hoàn toàn tự nguyện trong Xuthủ nghĩa vụ tax. Ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện thực hiện cơ chế NNT tự kê khai, tự nộp thuế và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, công việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá tính cộng thủ thuế của NNT để có những giải pháp chiến pháp nâng cao hơn nữa tính thuế thủ công là hết sức lực quan trọng. Điều này đặt ra yêu cầu phải trình bày rõ ràng hơn về lý thuyết và thực tiễn phụ thu thuế, đặc biệt phải đánh giá giá được tính thuế thủ công của NNT và đánh giá hiệu quả của hoạt động giám sát phụ thu thuế ở Việt Nam để cơ sở quản lý thuế (CQT) thực hiện các biện pháp quản lý có hiệu quả hơn.

Qua nghiên cứu cho thấy, thời gian qua, các thủ thuật tiếp tục đăng ký và cấp mã số thuế đã được CQT cải cách hoàng, tạo sự thông thoáng, thuận lợi cho NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ với NSNN. Nhờ những cải tiến thủ tục của ngành Thuế, NNT đã chủ động và tự động hơn trong việc đăng ký thuế. Số lượng NNT đăng ký tăng thuế qua các năm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và tương đồng với số lượng DN mới thành lập hàng năm. Theo báo cáo công bố “Đánh giá giới hạn thuế của DN” của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phân phối thực hiện cùng Ngân hàng thế giới năm 2023 với thang điểm từ 0 đến 5, thì cường độ thủ thuế được đánh giá cao nhất thuộc về đối tượng DN có vốn nhà nước, đạt 4,3 điểm; sau đó đến DN dân doanh đạt 4,12 điểm và cuối cùng là DN có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,7 điểm. Về loại hình DN, DN có vốn nhà nước có ý thức chấp hành đăng ký thuế tốt hơn so với các DN còn lại. Mặc dù các đối tượng này vẫn ở ngưỡng cao hơn mức trung bình nhưng bài hát có thể được tìm thấy ở các mức độ khác nhau trong việc đăng ký thuế định nghĩa.

Về tặng thủ kê khai thuế, trong giai đoạn 2016-2022, số lượng DN bổ sung kê khai thuế đạt ở mức cao. Giai đoạn 2018-2022 trung bình đã có 96% số tờ khai thuế được phụ thuộc vào tổng số tờ khai phải phụ (trong khi mục tiêu ngành Thuế đề đạt mức tối thiểu là 95% năm 2020), cao hơn giai đoạn phát triển mới khai thuế điện tử 2016-2017 là 93%.

Về cam kết nộp thuế, giai đoạn 2016-2022, CQT các cấp đã đưa mạnh việc kê khai thuế điện tử thông qua công việc kết nối hệ thống ứng dụng ngành Thuế với 12 nhà cung cấp dịch vụ kê khai thuế qua mạng internet (T -VĂN). Số lượng DN đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ điện tử thuế với CQT tăng từ 90% đến 98% trên tổng số DN đang hoạt động. Số DN đã nộp thuế điện tử qua việc tăng cường thương mại ngân hàng qua các năm, làm tăng quyền ủy quyền của số lượng ngân hàng CQT tăng lên, tạo ra sự tiện lợi hơn cho DN. Theo thống kê, trong năm 2022, số lượng DN đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với CQT là 856.172, đạt tỷ lệ 98,5%. Số lượng DN hoàn thành đăng ký dịch vụ ngân hàng và đúng hạn là 854.454 DN, đạt tỷ lệ 97,3%. Năm 2022, các DN đã nộp thuế thông qua 2.577.313 giao dịch thuế điện tử với số tiền trên 542.836 tỷ đồng và 48.707 USD.

Đi kèm thủ thuật báo cáo thuế, thông qua thực hiện email chuyên sâu nội dung vi phạm báo cáo thuế với 50 thuộc tính chuyên gia CQT (trong đó 10% ban lãnh đạo, 20% trưởng phòng thanh tra, 25% đội trưởng đội kiểm tra tra, 15% thanh tra viên và 30% kiểm tra viên) và 50 DN (thuộc 5 lĩnh vực kinh doanh chính là công nghiệp chế biến, chế độ tạo; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trữ và ăn uống; bán buôn và bán lẻ; xây dựng), kết quả được tìm thấy, việc làm không có thuế thu nhập của phổ biến DN hiện nay là báo cáo thu nhập sai, dẫn đến thuế phản ánh đúng TNDN không được xác định và không đúng với hoạt động của DN trong nền kinh tế. Các biểu hiện không phù hợp về số liệu trên báo cáo tài chính cũng dẫn đến sự không hợp lý của các báo cáo thuế, đây chính là một trong những biểu hiện của không thu thuế của DN (Franzoni Luigi A,1998) .

Mặc dù việc đăng ký thuế, kê khai thuế cũng như việc giảm thuế và công tác báo cáo đã ghi nhận nhiều tiến trình, song so với yêu cầu thực tiễn vẫn còn một số hạn chế, như việc DN không thực hiện , hoặc chậm trong khai báo thay đổi thông tin đăng ký thuế hoặc kê khai thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký thuế. Một số DN chấp hành việc làm hồ sơ khai thuế chưa tốt; kế hoạch tính toán nhiều DN nhưng khai thuế nhập vào những ngày cuối cùng cần thiết nên còn lại. Cùng với đó vẫn còn một số đơn vị được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí và một số DN, đơn vị sự nghiệp, tác xã chưa thực hiện tốt công việc kê khai, thuế phụ trợ đã ảnh hưởng đến kết quả chung .

Nguyên nhân của tình trạng này là ngành thuế hiện đang đánh giá NNT dựa trên hành động vi xu thủ chung, nên dịch vụ hỗ trợ NNT chưa được điều chỉnh theo phân loại NNT hay ngành kinh tế. Việc kết nối, trao đổi thông tin về NNT giữa CQT với các bộ, ngành chưa đáp ứng yêu cầu quản lý thuế, cơ chế trao đổi thông tin nhưng chưa phù hợp, cấp độ ứng dụng công nghệ thông tin, hạ tầng kỹ năng thuật toán giữa các bộ, chuyên ngành còn chưa đồng đều, thống nhất. Công tác quản lý rủi ro trong quản lý thuế mặc dù đạt được một số bước kết quả đầu tiên, song chưa thực sự hiệu quả và đồng bộ. Tác phẩm văn phòng và dân tiếp theo của bộ thuế được đánh giá là chưa chuyên nghiệp. Ngoài ra, khi kinh doanh trên nền tảng đã trở nên phổ biến thì hệ thống luật thuế vẫn còn những quy định chưa thống nhất, chồng chéo, gây nhiều cách hiểu sai. Đây là số đếm chưa được chấp nhận và hiểu biết về nghĩa vụ thuế của NNT chưa đầy đủ.

Giải pháp nâng cao tính thuế thuế của NNT

Từ thực hiện phân tích ở trên, để tiếp tục nâng cao tính kỷ luật của NNT, bài viết đề xuất một số giải pháp cụ thể.

Về thủ tục đăng ký thuế, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký thuế bằng cách tập trung Kiểm soát các thủ tục có cùng nội dung, yêu cầu về hồ sơ và xử lý hồ sơ để hợp lý nhất thành một thủ tục liên tục. Bên cạnh đó, cải tiến mẫu tờ khai đăng ký thuế theo hướng đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện cho DN; đồng thời, lập tiêu chuẩn phân loại các thủ tục theo nhóm tiêu chí DN, đảm bảo lợi ích cho quá trình đăng ký.

Về thủ tục kê khai thuế, cần thiết kế quy trình và mẫu khai thuế phù hợp với từng loại thuế và từng loại đối tượng NNT là DN hoặc cá nhân. CQT cần điều chỉnh và hoàn thiện các mẫu khai thuế sao cho khoa học, các thông tin trên tờ khai được sử dụng cho nhiều mục tiêu khác nhau trong quản lý thuế, có sự liên kết giữa các sắc thuế trên chỉ tiêu trên bảng khai báo trong một DN. Bên cạnh đó, các mẫu khai thuế nên sử dụng đồng bộ tại CQT từ cấp trung lượng đến cấp địa phương trong một khoảng thời gian ổn định, thúc đẩy hạn chế thay đổi, gây khó khăn cho NNT. Ngoài ra, các mẫu biểu, phụ lục đi kèm hồ sơ khai thuế cần thiết kế theo hướng đơn giản hóa với các tiêu chí dễ hiểu, dễ định lượng.

Về thủ tục nộp thuế và hoàn thuế, cần đảm bảo kết nối thông tin liên tục giữa các chức năng cơ bản: Kho bạc Nhà nước, CQT và các ngân hàng trong quản lý thuế của NNT. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và chuẩn hóa quy trình sản xuất NSNN và tính toán của quy trình này. Nhà nước cần khẩn trương thiết kế kế hoạch xây dựng và khai triển Trung tâm/Cổng thanh toán quốc gia - nơi xử lý tất cả các giao dịch liên quan đến các khoản thu chi của các cơ sở chức năng thuộc khu vực nhà nước, nhằm đảm bảo sự trao đổi thông tin nhất và nhiều chiều, phục vụ yêu cầu quản lý của từng ngành chức năng có liên quan.

Ngoài ra, để tránh trùng lặp trong hồ sơ hoàn thuế, cần kiểm soát và điều chỉnh thủ tục hoàn thuế theo tiêu chí có thể hiện tính minh bạch, logic, gọn nhẹ, tạo điều kiện cho DN hoàn thành thủ tục một cách thuận tiện , chóng vánh. Hồ sơ hoàn thuế có thể chia thành 2 loại: một loại là hoàn thuế gắn với hồ sơ kê khai thuế (ví dụ: tax TNCN và tax VAT). Hai là, hoàn thuế không gắn với hồ sơ khai thuế. Như vậy, NNT sẽ biết mình thuộc về đối tượng nào để hoàn tất thủ tục hoàn thuế đúng theo yêu cầu về thời gian và chất lượng đảm bảo. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và nguồn năng lượng, từ đó tạo thuận lợi cho hoạt động giám sát lợi ích của CQT.

Mặt khác, để giúp DN hiểu và thấy được mức độ quan trọng của phát triển thuế điện tử trong khế kê khai, nộp thuế và hoàn thuế, từ đó giúp tăng cường tính dưỡng thủ công của DN khi chấp hành nghĩa vụ thuế, CQT cần cung cấp hỗ trợ truyền thông tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Đặc biệt, khi thương mại điện tử trở thành một dạng thức kinh doanh phổ biến, ngành Thuế cần xuất bản sửa đổi chính sách theo hướng quy định chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện kê khai, trừ thuế thay cho cá nhân kinh doanh trên sàn. Đối với các nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam, trước khi thanh toán tiền cho cá nhân Việt Nam (dòng tiền vào Việt Nam), thì trừ, khai thuế trực tiếp với CQT qua Cổng thông tin điện tử của ngành Thuế. Đồng thời bổ sung quy định, các ngân hàng thương mại, trung gian thanh toán căn cứ tiền được trả từ nước ngoài thông qua tài khoản của cá nhân để trừ, khai thay, tặng thay cho cá nhân trong nước khi nhận tiền doanh nghiệp được thanh toán từ nước ngoài, qua đó tạo ra công bằng giữa các tổ chức kinh doanh và nguồn thu đảm bảo cho NSNN.

Tài liệu tham khảo

[1] Franzoni Luigi A (1998), Trốn thuế và tuân thủ thuế, Tạp chí có sẵn tại SSRN 137430.
[2] Phạm Thị Mỹ Linh (2019), Các tố chất ảnh hưởng đến Combo thu thuế của DN Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp TP Hà Nội, Luận án TS Kinh tế, ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[3] Nguyễn Hoàng & Đào Thị Phương Liên (2013), Ảnh hưởng của chính sách thuế đến phụ thu thuế: Kết quả khảo sát và một số kiến nghị, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 190 (II), 40- 45.
[4] Tổng cục thuế (2017-2023), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2017-2023, Hà Nội.
[5] VCCI, Worldbank (2023), Báo cáo đánh giá mức độ thuế thủ công đối với DN trong bối cảnh chuyển đổi số, Hà Nội.

TS Tôn Thất Viên - Trường ĐH Công nghệ TP.HCM (HUTECH)
ThS Đàm Minh Trung - Ngân hàng TNHH Indovina