Hoàn thiện lý luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
thăm mô hình du lịch văn hoá cộng đồng tại xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Lai
Châu_Nguồn: vietnamplus.vn
Quá trình hình thành lý luận về mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Năm 1986, trước bối cảnh nền kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng, trì trệ trầm trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến
hành đổi mới toàn diện đất nước. Công cuộc đổi mới không đơn thuần là tìm ra
giải pháp trước mắt cho nền kinh tế, mà thực chất là tìm ra mô hình phát triển
mới và con đường phù hợp để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước đó, Hội nghị Trung
ương 6 khóa IV (tháng 9-1979) được xem là dấu mốc khởi đầu quá trình đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội đất nước với những chủ trương mới là
“phát súng hiệu” về phát triển kinh tế hàng hóa, xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần…, thể hiện qua những việc “bỏ ngăn sông, cấm chợ”, cho “sản xuất
bung ra”, thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế(1).
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) chủ
trương đoạn tuyệt với cơ chế tập trung, bao cấp, tạo lập cơ chế thị trường,
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong cơ cấu nền kinh tế,
ngoài thành phần kinh tế XHCN, với khu vực quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, Đảng
thừa nhận và tôn trọng sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế khác,
gồm: tiểu sản xuất hàng hóa, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế tự
nhiên, tự túc, tự cấp.
Trên cơ sở những thành công bước đầu
trong phát triển nền kinh tế đa thành phần, Đại hội VII của Đảng (năm 1991)
tiếp tục lộ trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, với cơ cấu gồm năm thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, cá
thể tiểu chủ, tư bản tư nhân và tư bản nhà nước). Đại hội VIII của Đảng (năm
1996) bắt đầu định hình các thành tố cơ bản về định hướng XHCN trong phát triển
nền kinh tế thị trường: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái"(2).
Mặc dù từ Đại hội VI của Đảng đến Đại
hội VIII của Đảng, Đảng đã có những bước phát triển nhất định về lý luận kinh
tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tuy nhiên,
thị trường chỉ được coi là một cơ chế để điều tiết nền kinh tế, chưa
xác lập là một chỉnh thể, bao gồm cả cấu trúc nội tại lẫn thiết chế vận hành.
Về thực chất, chưa coi kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) chuyển
từ nhận thức thị trường như một công cụ, cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức
thị trường là một chỉnh thể, cơ sở kinh tế của xã hội trong thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"(3)
Về cơ bản, đến Đại hội IX của Đảng, mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã được định hình. Theo đó,
mô hình này vừa phản ánh tính phổ quát của nền kinh tế thị trường hỗn hợp (thị
trường và nhà nước), vừa mang tính “định hướng XHCN”, với những đặc trưng là:
nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, có sự quản lý của nhà nước XHCN, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu phát triển bền vững trên
cơ sở: “Từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”(4).
Đại hội X của Đảng (năm 2006) nhấn
mạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và
trước hết cần nắm vững định hướng XHCN. Trong đó, tính định hướng
XHCN được thể hiện là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân
làm chủ, Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”(5). Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp
tục bổ sung và luận giải rõ hơn về nội hàm của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là mô hình kinh tế thị
trường vừa tuân theo những quy luật của thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt chi phối bởi nguyên tắc và bản chất chủ nghĩa xã hội”(6).
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp
tục hoàn thiện về nội hàm trên cơ sở gắn kết từng cấu phần “bên
trong” với mục tiêu và phương thức vận hành nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là: “Nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”(7). Đến
Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng tiếp tục khẳng định “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(8).
Những thành tựu đáng
tự hào
Việt Nam đang chứng kiến bức tranh
kinh tế đầy khởi sắc, giai đoạn 1986 - 2020, mức tăng trưởng trung bình
khoảng 7% mỗi năm, quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt
khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong
40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Năm 2023, GDP bình quân đầu người đạt khoảng
4.300 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ
trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (thu nhập bình quân đầu
người đạt khoảng 7.500 USD). Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng mạnh, năm 2023
đạt gần 700 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 355 tỷ USD, xuất siêu
đạt mức kỷ lục 28 tỷ USD; Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22
toàn cầu. Đầu tư nước ngoài liên tục phát triển, vốn đăng ký tăng 32%, vốn thực
hiện tăng 3%, đạt 23 tỷ USD trong năm 2023, cao nhất từ trước đến nay; và Việt
Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2023 được
các tổ chức quốc tế đánh giá đứng 46/132 nước được xếp hạng(9).
Không những tăng tốc về lượng, trên cơ
sở ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chiều sâu nền kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn này cũng được cải thiện ấn tượng. Xét trên bình diện
tổng thể theo cấu trúc ba yếu tố đầu vào nền kinh tế: vốn, lao động và năng
suất các nhân tố tổng hợp - TFP(10) cho thấy, đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế
ngày một lớn. Cụ thể: Tính chung cả giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của TFP vào
tăng trưởng kinh tế đạt 45,57%, cao hơn mức 32,88% của giai đoạn 2011 - 2015.
Năm 2021, đóng góp của TFP vào tăng trưởng tiếp tục được duy trì và đạt 37,13%(11).
Thành tích ấn tượng nhất trong tiến
trình đổi mới của Việt Nam được ghi nhận là công cuộc xóa đói giảm nghèo. Năm
2023, tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% theo
chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu
chí cao hơn trước); có 78% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, hầu hết các xã nông
thôn mới đều có đường ô-tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu
học và trung học cơ sở, trạm y tế và mạng điện thoại. Quá trình đô thị hóa được
đẩy mạnh gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tỷ lệ đô thị
hóa đã đạt khoảng 43%; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở cả nông thôn
và đô thị, nhất là hạ tầng y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, bưu chính viễn
thông đều có bước phát triển mạnh mẽ; đã đưa vào sử dụng nhiều sân bay, bến
cảng hiện đại, hơn 1.900km đường cao tốc và phủ sóng rộng rãi mạng 4G, 5G(12).
Việt Nam đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ
cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm
2014; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng 20 lần trong gần 40 năm qua. Hiện
nay, Việt Nam có gần 99% số người lớn biết đọc, biết viết. Bên cạnh đó, Việt
Nam đã mở rộng diện bảo hiểm y tế cho toàn dân, đạt mức 93,35%, trong đó, người
nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiệm y tế miễn phí;
đồng thời, tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch
bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn... Liên hợp quốc đã công nhận
Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục
tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm các nước có HDI cao của thế giới, nhất là so
với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm
2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng(13).
Công nhân lắp ráp các linh kiện điện tử phục vụ cho ngành
công nghiệp điện tử tại Công ty TNHH Khvatec Thái Nguyên (vốn đầu tư của
Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Yên Bình, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên_Ảnh: TTXVN
Tiếp tục hoàn thiện
lý luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
quan điểm của Tổng Bí thư
Trong tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”(14). Để đạt được mục tiêu đó, cần phải
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN - “một đột phá lý luận rất cơ bản
và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(15). Trong đó, Tổng Bí thư tập trung luận giải, nhấn mạnh một
số vấn đề cơ bản sau:
Về quan hệ sở hữu. Tương ứng với quá trình vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất nước ta từng bước
được xây dựng phù hợp, tiến bộ, với nhiều hình thức sở hữu, đa thành phần kinh
tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật và đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển;
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.
Về tổ chức, quản lý. Nhà nước quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật
chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Về quan hệ phân phối. Bảo đảm công bằng và tạo động
lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
phân phối thông qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội.
Một đặc trưng cơ bản,
một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong kinh tế thị trường ở
Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với
chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát
triển. Nói cách khác, kinh tế thị trường và tính định hướng XHCN có mối quan hệ
chặt chẽ, không mâu thuẫn với nhau. Phát triển kinh tế thị trường để thực hiện
mục tiêu XHCN và định hướng XHCN có vai trò định hướng cho nền kinh tế thị
trường. Đây là điểm đặc sắc trong mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tổng
Bí thư nhấn mạnh: “Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát
triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó
khăn”(16); đây là “yêu cầu có
tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”(17). Đồng thời, mô hình
kinh tế này cũng hướng đến giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước - thị
trường - xã hội, cụ thể:
Một là, Nhà nước đóng vai trò
bảo đảm thị trường và xã hội thực hiện đúng chức năng của nó. Nhà nước không
“làm thay” mà sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của mình để định
hướng và điều tiết nền kinh tế không làm méo mó thị trường, thúc đẩy hoạt động
sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường.
Hai là, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu
để giải phóng sức sản xuất. Kinh tế thị
trường không phải vốn dĩ là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là kết
quả của tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Alvin Toffler - nhà
tương lai học người Mỹ - khẳng định: Thị trường là một mạng lưới trao đổi được
ví như một tổng đài, mà ở đó, hàng hóa, dịch vụ (cũng như tin tức) sẽ tìm tới
nơi có nhu cầu. Do đó, nó không chỉ thuộc về tư bản, mà thiết yếu cho cả xã hội
công nghiệp xã hội chủ nghĩa, cũng như bất kỳ đâu có hệ thống công nghiệp quy
mô lớn gắn với động cơ lợi nhuận(18).
Ba là, xã hội là điểm nổi bật trong mục tiêu
phát triển của Việt Nam, do đó Đảng Cộng sản chủ trương kết hợp chặt chẽ các
mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp
với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Các vấn đề xã hội
không phải đi sau kinh tế, mà giải quyết tốt các vấn đề xã hội cũng chính là
tạo điều kiện, động lực cho tăng trưởng.
Bên cạnh đó, trong cuốn sách, Tổng Bí
thư còn có những bài viết quan trọng về phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, như: xây dựng giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp thanh niên, lực lượng công an, quân đội lớn
mạnh…, đồng thời nhấn mạnh cần phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam; trường phái
ngoại giao “cây tre Việt Nam”; khơi dậy khát vọng hùng cường, thịnh vượng Việt
Nam… để có thể xây dựng, phát triển thành công mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam./.
TS NGUYỄN VĂN ĐIỂN - HÀ THỊ VIỆT THÚY
Học
viện Chính trị khu vực II
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
--------------------
(1) Giáo trình Quản lý kinh tế (cho hệ cử nhân
chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 35
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời
kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008, tr. 334
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 23
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr. 24
(5) Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 25 - 26
(6) Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 204 - 205
(7) Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 102
(8)Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr.
128
(9) Xem: Nguyễn Phú Trọng:
“Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước
Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí
Cộng sản, số 1.030 (tháng 1-2024), tr. 10
(10) Bao gồm chất lượng nguồn nhân
lực, thể chế, cơ sở hạ tầng, mức độ sẵn sàng công nghệ, phản ánh chất lượng
tăng trưởng
(11) Xem: Trần Thị Hồng Minh, Nguyễn
Văn Tùng: “Cơ cấu lại nền kinh tế: Nhìn lại giai đoạn 2016-2021 và những định
hướng giai đoạn 2025 - 2030”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, ngày
8-2-2022, https://kinhtevadubao.vn/co-cau-lai-nen-kinh-te-nhin-lai-giai-doan-2016-2021-va-nhung-dinh-huong-giai-doan-2025-2030-21290.html
(12) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và
tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam
ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí Cộng
sản, số 1.030 (tháng 1-2024), tr. 11
(13) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Tự hào và
tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam
ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, Tạp chí Cộng
sản, số 1.030 (tháng 1-2024), tr. 11
(14) Nguyễn Phú Trọng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 24
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 25
(16), (17) Nguyễn Phú Trọng: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27
(18) Xem: Alvin Toffler: Làn sóng thứ ba, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1980