Nghị quyết số 57: Hướng tới phát triển khoa học, công nghệ… chuyển đổi số quốc gia
Băng thông siêu rộng ngang tầm các nước
tiên tiến
Trong
đó, mục tiêu hướng đến năm 2030 hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung
lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước
làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số …phủ sóng 5G toàn quốc.
Cơ hội
nhiều nhưng thách thức cũng rất lớn.
Thực
tế, công nghệ 5G đang đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hiệu quả và đổi
mới ở các ngành công nghiệp như sản xuất, nhà máy thông minh, cảng biển, và
Internet vạn vật công nghiệp (IoT). Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên băng thông
rộng và IoT khi các nhà mạng chính thức triển khai thương mại 5G trên toàn quốc.
Vì vậy, ứng dụng công nghệ 5G sẽ giúp Việt Nam có thể bắt kịp với thế giới
trong các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, cảng biển, khai khoáng, giao thông
thông minh...
Hiện
nay, chính phủ đã ban hành nhiều quyết định quan trọng để thúc đẩy phát triển hạ
tầng mạng di động 5G, coi đây là nền tảng cốt lõi trong quá trình chuyển đổi số
quốc gia. Bộ TT&TT đã đưa ra chiến lược hạ tầng số của Việt Nam đặt mục
tiêu đưa đất nước tiến nhanh trong công cuộc chuyển đổi số, tập trung vào các định
hướng quan trọng. Trong đó, phổ cập cáp quang tốc độ cao và phủ sóng 5G trên
toàn quốc là những ưu tiên hàng đầu.
Tọa đàm “Thương mại hóa 5G, ứng dụng vào
ngành công nghiệp thông minh”
Cho
đến thời điểm này, các nhà mạng Việt Nam đã thương mại hóa 5G và đang nỗ lực
triển khai 5G phục vụ cho người dân và ứng dụng vào các ngành kinh tế. Tại tọa
đàm “Thương mại hóa 5G, ứng dụng vào ngành công nghiệp thông minh” do câu lac bộ
nhà báo ICT tổ chức. Đây là vấn đề thời sự khi mà các nhà mạng vừa tuyên bố
thương mại hóa 5G, mở ra nhiều cơ hội mới về thị trường và trải nghiệm mới cho
khách hàng.
Việt Nam đang thiếu các chuyên gia chuyển đổi
số ngành dọc.
Phát
biểu tại tọa đàm, ông Nguyễn Tuấn Huy, Trưởng ban Chuyển đổi số MobiFone cho rằng
cơ hội của 5G với nhà máy thông minh của Việt Nam rất lớn. Theo khảo sát của
VINASA tại các khu công nghiệp, chế xuất tại TP.HCM với 98 doanh nghiệp, 61%
các doanh nghiệp này chưa tự động hóa gì cả, hoàn toàn làm bằng tay, 25% tự động
hóa được một chút, điều này cho thấy dư địa vẫn còn rất nhiều. Tổng cộng lại đến
86% các doanh nghiệp gần như chưa tự động hóa gì cả. Ở mảng thông minh hóa còn
thấp hơn nữa, 25% các doanh nghiệp hoàn toàn không kết nối, thông minh trong
dây chuyền sản xuất. Lợi thế Việt Nam là lao động giá rẻ, toàn sản xuất thủ
công toàn gia công cho thế giới về may mặc, da giày, dư địa để làm nhà máy
thông minh ở Việt Nam còn rất nhiều.
Cụ
thể, doanh nghiệp nhà nước chiếm 29% GDP Việt Nam. Và Việt Nam cũng có tới 269
cảng. Tại Hải Phòng hiên áp dụng cảng thông minh nhiều (ePort), ra và 1 cửa 1 dấu,
nhưng thực tế mức độ so với thế giới vẫn còn hạn chế. Nếu muốn đầu tư cả một cảng
thông minh thì phải bỏ toàn bộ những cái cũ đi. Để làm điều đó thì phải có sự đầu
tư. 5G chỉ là chất xúc tác, kết nối, liệu cảng có sẵn sàng bỏ tiền cho một dự
án chuyển đổi số như vậy không?
Chúng
ta thấy Việt Nam đang thiếu các chuyên gia chuyển đổi số ngành dọc. Phải có các
chuyên gia ấy thì nhà mạng và các cảng, doanh nghiệp, nhà máy, sân bay mới kết
nối với nhau được.
Thách thức lớn nhất là khách hàng tổ chức,
doanh nghiệp phải thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất kinh doanh
Về
phía Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông (VNPT) vừa chính thức thương mại hóa 5G. Ông
Nguyễn Quốc Khánh, Phó ban Công nghệ tập đoàn VNPT khẳng định vai trò của doanh
nghiệp viễn thông CNTT nòng cốt, tiên phong trong phát triển hạ tầng số. VNPT
khẳng định với Chính phủ, khách hàng doanh nghiệp, cá nhân sẽ mang lại giá trị
mới kết hợp với các công nghệ khác như cloud, AI, big data... tạo thành hệ sản
phẩm, dịch vụ để phục vụ rộng khắp lĩnh vực, khía cạnh của nền kinh tế và toàn
bộ xã hội. Đây là cơ hội để VNPT khai phá không gian kinh doanh mới, 5G cho thấy
các giá trị và lợi ích rõ rệt, tuy nhiên, triển khai 5G thành công hay không
còn phụ thuộc nhiều yếu tố.
Thách
thức lớn nhất là khách hàng tổ chức, doanh nghiệp phải thay đổi toàn bộ phương
thức sản xuất kinh doanh, đầu tư nhiều hơn, chấp nhận chuyển đổi số là hành
trình dài hơi, nhà mạng phải hiểu biết và đồng hành nhiều hơn. Những điều này
là thách thức rất lớn trong việc quyết định và triển khai công nghệ mới như 5G
trong hoạt động chuyển đổi số của từng doanh nghiệp.
Như
tại châu Âu, khi thí điểm 5G, kết quả mang lại cho các cảng biển, nhà máy thông
minh rất rõ ràng, cải thiện hiệu suất, hiệu quả hoạt động, giảm thiểu nhân
công, giải quyết các bài toán về môi trường, mang lại lợi ích cho xã hội. Các
lĩnh vực dọc, sản xuất chiếm 15% GDP toàn cầu, các nhà mạng khi triển khai 5G đều
xem đây là lĩnh vực rất quan trọng.
Mới
đây, Tập đoàn VNPT đã ký thỏa thuận chiến lược với MobiFone chia sẻ hạ tầng, đã
có thử nghiệm liên quan đến 4G và sắp tới đây là 5G, sẽ gia tăng phủ sóng, có
thể lên đến khoảng 50% vùng phủ của hai bên. Với VNPT, trong giai đoạn đầu tiên
chúng tôi sẽ triển khai ít nhất 3.000 vị trí và mở rộng rất nhanh.
Theo
Nghị quyết 57, phải phủ sóng 5G toàn quốc vào năm 2030. Với định hướng như vậy,
chúng tôi chắc chắn sẽ gia tăng mục tiêu trong xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng,
hi vọng sẽ có tháo gỡ về pháp lý, chính sách, giúp nhà mạng thu hút đầu tư từ
phía xã hội để phát triển hạ tầng đáp ứng tốt.
Với
sự chỉ đạo rất sát sao của Đảng, Nhà nước tại Nghị quyết 57, Đại diện của Tập
đoàn Công nghiệp – viễn thông (Viettel) ông Lê Bá Tân, Trưởng ban kỹ thuật cho
biết: Viettel đã khai trương mạng di động 5G vào tháng 10/2024, bao phủ 95%
vùng phủ 5G của Viettel tại 63 tỉnh, thành phố. Trên toàn quốc hiện nay Viettel
có khoảng 10 triệu thuê bao có thiết bị đầu cuối 5G, trên tổng số 66 triệu
khách hàng đang sử dụng mạng di động của Viettel.
Còn
với khách hàng doanh nghiệp, chúng tôi ưu tiên cho những đơn vị đang có nhu cầu
sử dụng mạng 5G như khu công nghiệp, sân bay, bến cảng... giống như các mô hình
trên thế giới, hạ tầng 5G cần được tạo dựng trước để đón đầu xu hướng, nhu cầu.
Ngoài
ra, Viettel chúng tôi đã xây dựng 2 lab tại Hà Nội và TP HCM, nơi tập trung tất
cả các nhà phát triển ứng dụng 5G có thể đến để phát triển, thử nghiệm để trách
chuyện ứng dụng vào có thể nhiễu tần số, hay giao thức IoT không chạy.
Đến
thời điểm hiện tại, mới chỉ “phôi thai” có một số doanh nghiệp FDI như Formosa
và một số nhà máy đang sử dụng mạng 5G. Hiện Viettel đang có khoảng 100 doanh
nghiệp đang làm việc với Tổng công ty giải pháp doanh nghiệp Viettel để phối, kết
hợp trong việc thử nghiệm, làm sao ra được các giải pháp số cung cấp cho doanh
nghiệp.
Đến
nay các điều kiện để triển khai mạng 5G đã rất thuận lợi. Đặc biệt, Bộ
TT&TT đã chính thức công bố chuẩn bị cho việc đấu giá băng tần 700 MHz. Khi
băng tần này được cấp cho nhà mạng, sẽ giúp các nhà mạng nâng cao vùng phủ
sóng, nhất là vùng sâu vùng xa; đồng thời cũng giúp quy hoạch được 2 băng tần
900 MHz và 700 MHz. Khi kết hợp lại cả băng tần thấp và băng tần cao sẽ phát
huy hiệu quả mạng 5G, tiết kiệm nhiều chi phí. Viettel và VinaPhone cũng đã tìm
ra cách để 2 nhà mạng chia sẻ cùng nhau hạ tầng 5G.
Tôi
nghĩ cả 3 nhà mạng lớn của Việt Nam hiện nay đều là học kinh nghiệm quốc tế.
Chúng tôi đi Trung Quốc, Hàn Quốc rất nhiều, để xem bài học thành công của họ
là gì; và thứ 2 cũng để tìm kiếm sản phẩm, giải pháp để mang về tích hợp vào. Đồng
thời, phát triển các ứng dụng, giải pháp giải quyết các vấn đề, bài toán của Việt
Nam, với định hướng chung là mình phải làm chủ công nghệ. Nội dung này chúng
tôi đang phối hợp với các đối tác để xây dựng đề án.
Theo
ông Hồ Anh Thắng, Giám đốc Giải pháp Tự động hóa Công ty cổ phần TNtech cho biết,
theo khảo sát của một đơn vị lớn, việc sử dụng công nghệ thông minh sẽ giảm lượng
khí thải carbon từ 5 đến 15%, là lợi thế lớn trong triển khai giải pháp thông
minh trong công tác quản trị, điều hành.
Trong
quá trình làm việc dưới các khu công nghiệp (KCN), tôi thấy họ luôn có nhu cầu
áp dụng công nghệ tiên tiến để phục vụ công tác quản lý vận hành tối ưu. Một
nhu cầu cấp thiết là tiết giảm chi phí. Ngoài ra, về mặt thị trường, họ sẽ nâng
cao chất lượng sản phẩm, cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường. Khi áp
dụng các giải pháp liên quan đến KCN thông minh, nhà máy thông minh, đây sẽ là
những lợi ích lớn.
Chúng
tôi đang quản lý khoảng 550 doanh nghiệp trong các KCN. Từ buổi chia sẻ hàng
năm của tất cả doanh nghiệp, tôi thấy rằng các doanh nghiệp FDI từ châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc có yêu cầu lớn đối với giải pháp liên quan tự động hóa, kết
nối. Chúng tôi được đặt hàng nhiều giải pháp tuy nhỏ nhưng mang lại giá trị lớn
như lắp đặt các cảm biến không dây trong một nhà máy xử lý nước thải, điều mà
trước đây không làm được.
Doanh
nghiệp đặc thù sản xuất như linh kiện điện tử và lắp ráp... yêu cầu rất cao đối
với tự động hóa và giải pháp áp dụng 5G. Doanh nghiệp đòi hỏi nhiều robot, chở
xe hàng, sắp xếp xe hàng cũng có nhu cầu lớn với các giải pháp 5G.
Chúng
tôi mong muốn dựa trên nền tảng công nghệ 5G, trung tâm R&D của các nhà mạng
có thể nghiên cứu giải pháp tích hợp đi kèm như cảm biến IoT đi kèm ứng dụng
5G, module AI xây dựng sẵn để khách hàng có nhu cầu sử dụng... Nó sẽ mang lại
giá trị lớn cho doanh nghiệp, xã hội.
Tác
động đến toàn bộ lĩnh vực của nền kinh tế và xã hội.
Để công nghệ mới đi vào cuộc sống, phải có
chính sách quyết đoán.
Để
công nghệ mới đi vào cuộc sống, phải có chính sách quyết đoán, mạnh mẽ. Với các
thông tin nhà mạng vừa đưa ra. Theo ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Thường
trực Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ TT&TT) cho rằng: Qua các cuộc thảo
luận về 5G, tôi cảm thấy rất hứng thú với việc công nghệ này sẽ được tận dụng để
thúc đẩy cuộc cách mạng chuyển đổi số quốc gia.
Theo
ông Đoàn Quang Hoan, Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam chia sẻ, Sau 5
năm tăng trưởng bứt phá về số lượng thuê bao trên toàn cầu, 5G đang có hiện tượng
chững lại. Cái người ta kỳ vọng vào 5G không phải chỉ là tốc độ cao, độ trễ thấp
vì không mang về lợi ích lớn so với 4G, đặc biệt đối với doanh nghiệp, mà là
IoT, private network của doanh nghiệp, B2B. Điều này đang gặp trở ngại rất lớn
trên cả thế giới.
Các
yếu tố hạn chế có thể kể đến: thứ nhất, thay đổi tiêu chuẩn không kịp với sự
phát triển của 5G, sensor, tự động hóa phải thay đổi, trang bị lại. Đây không
phải việc của nhà mạng. ITU và 3PPP chỉ lo phần giao diện vô tuyến nhưng sensor
phải để các tổ chức tiêu chuẩn hóa khác nên không theo kịp. Nhiều khi tốc độ
thay đổi công nghệ lớn quá dẫn đến những khó khăn nhất định. Thứ hai là vùng phủ
hạn chế ở nhiều nơi trên thế giới. Thứ ba là an ninh. Thứ tư, quan trọng nhất
là thương mại, kinh tế.
Hiện
nay tất cả nhà mạng đều bối rối trước câu chuyện kiếm tiền từ 5G. Đầu tư là câu
chuyện rất phức tạp. Với 4G trở xuống, tỷ lệ đầu tư của nhà mạng/xã hội là
40/60 thì 5G tỷ lệ còn khó khăn hơn. Kỳ vọng của 5G là vào IoT, B2B mà chi phí
đầu tư cực lớn.
Là một
đơn vị làm chính sách của Bộ TT&TT, ông Nguyễn Phong Nhã, Phó Cục trưởng Cục
Viễn thông chia sẻ phát triển hạ tầng số, thương mại hóa 5G tại Việt Nam. Phải
dựa trên mục tiêu của quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng. Ba mục
tiêu đó phải luôn đồng hành, trong mọi chính sách. Chính sách nào mà có sự đồng
hành, chia sẻ càng mạnh mẽ, có tỷ lệ người tham gia cao thì càng đi vào cuộc sống,
có giá trị thực sự.
Thứ
nhất, các nhà mạng viễn thông từ trước đến nay đang cung cấp một dịch vụ kết nối,
truy cập liên tục được cải thiện về mặt chất lượng, vùng phủ; nhưng chủ yếu
cung cấp trên thị trường toàn quốc, công cộng.
Nhưng
khi đi vào mạng 5G, chúng ta thấy rằng nó cá thể hóa cho từng đối tượng khách
hàng. Khi cá thể hóa cho từng đối tượng khách hàng, các doanh nghiệp không chỉ
cần đẩy mạnh mối quan hệ với các cơ quan quản lý viễn thông mà còn với tất cả
các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác…
Thứ
hai là ở góc độ khi chúng ta đưa tự động hóa vào, số lượng công nhân, người lao
động giảm xuống, chúng ta có giải quyết tận cùng vấn đề. Đó là đào tạo nghề mới
cho họ không. Nếu chúng ta đào tạo nghề mới có lương cao hơn cho người lao động
thì cũng chính là chúng ta góp phần vào việc giải quyết bẫy thu nhập trung bình
của Việt Nam. Còn nếu như chúng ta chỉ nhìn từ góc độ cung cấp một giải pháp tốt
hơn mà không nhìn đến tận cùng vấn đề là lao động dư thừa, thì chắc chắn một số
doanh nghiệp sẽ ngại ngùng trong việc ứng dụng hay không ứng dụng công nghệ.
Chúng
ta cũng cần phải tìm hiểu nhằm có bài toán đến toàn bộ doanh nghiệp, thực ttees
phải có giải pháp đi vào thị trường ngách,Tôi mong rằng thông qua truyền thông,
các doanh nghiệp công nghiệp, các ứng dụng 5G với độ trễ thấp, dung lượng truyền
tải lớn, mật độ cao cũng được gợi mở ra cho các doanh nghiêp trên cả nước, họ ứng
dụng công nghệ 5G trong thời gian tới.
Diễm Hương
Nguồn:
diendandoanhnghiep.vn