image banner
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội - Những vấn đề đặt ra cho phát triển xã hội số theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Sau 37 năm đổi mới, từ quản lý phát triển xã hội gắn với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung báo cấp, Việt Nam chuyển sang hệ thống quản lý phát triển xã hội dựa trên đa chủ thể gắn với đa dạng hóa nguồn lực, cơ chế tác động của Nhà nước, thị trường và xã hội. Vì thế, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được xử lý đúng đắn, phát triển mới cho phép phát huy đủ vai trò của từng thành tố, có tác dụng bổ sung mặt lợi, bù đắp thiếu hụt, cùng đích tạo ra xã hội phát triển.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã có bước phát triển nhận thức lý luận về xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Cùng với việc làm rõ hơn chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với nội dung, cơ chế, phương thức, công cụ can thiệp, điều tiết cụ thể (1), Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ” (2) , “trong huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực” (3) và “các tổ chức xã hội , xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường” (4), “tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi luật” (5 ) . Những nhận thức lý luận mới trên đây cần tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc và thể chế hóa, cụ thể hóa trong điều kiện quản lý phát triển xã hội số, xã hội thông tin.

Anh-tin-bai

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm một số doanh nghiệp sản xuất tại Khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh _Ảnh : TTXVN

1-Nhà nước, thị trường và xã hội là ba thành tố có quan hệ tương hỗ trong quản lý phát triển xã hội. Quản lý phát triển xã hội trước hết dựa vào thể chế nhà nước, được thiết lập thông qua Hiến pháp, luật, tạo “luật chơi” cho các chủ thể thị trường, cấu hình thành khung pháp lý đảm bảo cho mọi tổ chức và công dân được làm những điều luật không cấm; can doanh nghiệp với các điều lệ, quy định, văn hóa doanh nghiệp, có vai trò điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và chấp hành quy định pháp luật; thể chế xã hội với các quy phạm thành văn và bất thành văn, điều kiện của các tổ chức xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội, từng thành viên tổ chức xã hội. Quản lý phát triển xã hội còn dựa vào các thiết chế, như tổ chức bộ máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị sự nghiệp tư nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng... Gắn với 3 loại hình thể chế, thiết chế nêu trên trong quản lý phát triển xã hội là cơ chế hỗn hợp với sự kết hợp giữa quản lý hành chính (như phân bổ ngân sách), nguyên tắc thị trường (như áp dụng nguyên tắc cận tranh trong cận kề nguồn đầu tư, không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản) của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), Nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...). thiết chế nêu trên trong quản lý phát triển xã hội là cơ chế hỗn hợp với sự kết hợp giữa quản lý hành chính (như phân bổ ngân sách), nguyên tắc thị trường (như áp dụng nguyên tắc cạnh tranh trong vùng lân cận nguồn gốc) tư công, không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), Nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...). thiết chế nêu trên trong quản lý phát triển xã hội là cơ chế hỗn hợp với sự kết hợp giữa quản lý hành chính (như phân bổ ngân sách), nguyên tắc thị trường (như áp dụng nguyên tắc cạnh tranh trong vùng lân cận nguồn gốc) tư công, không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), Nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...). không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), Nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...). không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài khu vực nhà nước) và cơ chế cộng đồng (như tự quản ở cộng đồng thôn/bản, tự quản của tổ chức xã hội). Phát triển xã hội luôn cần đến nguồn lực đa dạng, từ nguồn lực nhà nước (tài chính ngân sách, đầu tư công, đất đai, tri thức, nhân lực, khoa học - công nghệ, tài nguyên số...), Nguồn lực doanh nghiệp (vốn, tri thức quản lý, khoa học - công nghệ, nhân lực...) đến nguồn xã hội (đất đai, vốn, tài nguyên văn hóa, nhân lực...).

Trò chơi quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội biểu hiện trên nhiều khía cạnh: giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý; giữa các chủ sở hữu có thể thị trường; giữa các giai tầng, cộng đồng xã hội, tổ chức xã hội, thể chế xã hội với Nhà nước và thị trường; giữa lợi ích công với lợi ích doanh nghiệp, lợi ích của từng giai tầng, cộng đồng xã hội; giữa nguồn lực nhà nước với nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội. Bản chất sâu xa của mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là sự kết hợp, bổ sung lợi thế, bù đắp sự thiếu vắng của nhau, nhằm tối ưu hóa mục tiêu quản lý xã hội ở Việt Nam. Các thành phần của “bộ ba” Nhà nước, thị trường và xã hội chỉ thực sự là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa, bù đắp thiếu thiếu và bổ sung lợi thế cho nhau khi chúng được đặt trong tổng thể hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nếu tuyệt đối hóa một mặt nào của “bộ ba” Nhà nước, thị trường, xã hội thì sẽ gây nên những xung đột, làm trầm trọng thêm “khuyết tật” của từng thành phần, kể cả chí nghịch nhau, ảnh hưởng tiêu cực cực đến quản lý phát triển xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật và đạo đức công vụ; nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, coi trọng hành thủ pháp và liêm chính kinh doanh; xã hội văn minh, vận tải dân chủ vận hành dựa trên nguyên tắc pháp quyền kết hợp với điều chỉnh của xã hội đạo đức. Xã hội phát triển luôn cần đến luật công bằng, không thiên vị, Nhà nước vận tải theo nguyên tắc pháp quyền, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tính tối thượng của luật pháp được mọi tổ chức và công dân phục tùng, lâu dần sẽ trở thành thói quen tự giác. Nguyên tắc pháp quyền áp dụng không chỉ đối với doanh nghiệp, xã hội và nhân dân, mà trước hết là các cơ quan công quyền và đội ngũ công tổ chức. Xã hội càng phát triển càng thúc đẩy nhiều doanh nghiệp khu vực tư nhân thực hiện tốt hơn trách nhiệm xã hội, mở rộng phúc lợi cho người lao động, đảm bảo chắc chắn quyền của người lao động và tham gia cung ứng dịch vụ xã hội theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Các tổ chức xã hội vận động cũng áp dụng phương thức quản trị doanh nghiệp để có thể gia tăng quy mô các bộ phận, thúc đẩy tăng trưởng tài chính, nhờ đó có điều kiện thực hiện tốt hơn mục tiêu, sứ mệnh và giá trị đạo đức of the organization. Có thể nói,nguyên tắc pháp quyền, đạo đức công vụ, liêm chính kinh doanh và đạo đức xã hội là “mẫu số chung” đảm bảo cho Nhà nước, thị trường và xã hội kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, bổ sung cho nhau, giống nhau end of the general social PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG. Và, sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng đóng vai trò quyết định việc kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay.

2-Kinh tế thị trường có mặt tích cực là phân bổ hiệu quả nguồn lực; thúc đẩy tự do cận tranh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, đào thải những doanh nghiệp yếu kém; phát huy tính năng sáng tạo của người lao động, phát triển sức sản xuất, tạo ra cải cách vật chất ngày càng tăng. Tuy vậy, kinh tế thị trường có “khuyết tật” là thường chú ý đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, nguồn lực đầu tư hướng đến nơi có khả năng sinh lời, không nên sản xuất hàng hóa, dịch vụ công cộng, chí chí vì tối đa hóa lợi nhuận mà có những doanh nghiệp sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng (như gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả). Trong nền kinh tế thị trường, phân phối không công bằng dẫn đến phân cực của cải cách, phân hóa nghèo, tầng phân mức sống, chênh lệch trình độ phát triển giữa các vùng; Cạnh tranh không hoàn hảo tạo hiệu ứng cơ chế thị trường suy giảm và xuất hiện độc quyền; tính tự phát của thị trường thường gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ để kéo dài những hậu quả lâu dài.

Vì vậy, sử dụng đúng đắn, khôn khéo vai trò của Nhà nước, kết hợp với phát huy đầy đủ sức mạnh của xã hội là cách thức quan trọng hàng đầu cho phép thúc đẩy mặt tích cực và sửa chữa “khuyết tật” của thị trường, cụ thể:

Một là, hoàn thiện khả năng bảo vệ quyền tài sản của mọi tổ chức và cá nhân; tạo “sân chơi” công bằng cho các chủ thể trên thị trường tự do kinh doanh, Cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền, loại bỏ “nhóm lợi ích”. Các công cụ, chính sách, nguồn nước nhà nước được sử dụng để giữ ổn định kinh tế vĩ mô; đảm bảo chắc chắn các đối tượng lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Hai là, phân phối lại thu nhập thông qua hệ thống phúc lợi xã hội Mục đích giải quyết bất thành công xã hội phát sinh sau khi phân phối lần đầu. Phúc lợi xã hội trên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đảm bảo chắc chắn bằng sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nền tảng là dịch vụ công cơ bản, thiết yếu ( miễn phí hoặc phí sử dụng thấp), xóa bỏ những hàng hóa, dịch vụ mà tư nhân không sản xuất, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có thể ủy quyền cho khu vực bên ngoài Nhà nước cung cấp một số dịch vụ công cộng, thúc đẩy cạnh tranh, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng dịch vụ.

Anh-tin-bai

Chăm sóc trẻ em sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội _Ảnh: TTXVN

Ba là, đảm bảo an sinh xã hội dựa trên cơ chế đóng - hưởng và chia sẻ, giúp dân luôn duy trì thu nhập tối thiểu, phòng khi rủi ro, mất sức lao động vẫn được bảo vệ và chăm sóc, không rơi vào cùng cực. Hệ thống an sinh xã hội dựa trên cơ chế tài chính đóng - hưởng và chia sẻ, được Nhà nước bảo trợ, kể cả hỗ trợ tài chính ngân sách để thực hiện một số phúc lợi xã hội mang chức năng an sinh, như Hỗ trợ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số mua bảo hiểm y tế, hỗ trợ bằng tiền mặt cho người mất việc làm thiên tai, dịch bệnh, như trong đại dịch COVID-19.

Bốn là , Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không làm hoặc chưa làm. Đó là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu, tạo môi trường dẫn dắt, lôi kéo nguồn lực tư nhân theo phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư” . Đó là đầu tư kiến tạo những thị trường tiềm ẩn (như thị trường khoa học - công nghệ) mà tư nhân chưa đầu tư, đến khi thị trường thành đạt, đủ sức hấp dẫn, thu hút được tư nhân tham gia thì Nhà nước can't transfer to transfer the startuping a sector, new professional.

Năm là, hậu cần liêm chính kinh doanh, thực hiện công khai, minh bạch và nhiệm vụ giải trình của doanh nghiệp gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát doanh nghiệp chấp pháp luật. Đề cao liêm chính kinh doanh khiến doanh nghiệp gắn kết giữa việc tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường, tôn trọng quyền của người lao động tại doanh nghiệp và quyền lợi của người tiêu dùng. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là cơ sở cho các cơ quan nhà nước, truyền thông - báo chí và xã hội giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện, ngăn chặn và loại bỏ những hành vi kinh doanh trái luật và vi phạm tiêu chuẩn đạo đức xã hội.

Sáu là , phát huy vai trò tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thúc đẩy liên kết, hợp tác, điều tiết quan hệ thị trường, góp phần giảm thiểu tính tự phát của thị trường, cân đối cung - request, phòng chống nguy cơ khủng hoảng chu kỳ. Bảo đảm sự cân bằng giữa các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khi tác động đến chính sách, hạn chế “nhóm nhóm lợi ích” tìm cách giành lấy lợi thế mà gây tổn hại đến lợi ích chính của lợi ích nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt là nhóm yếu tố thế giới.

Bảy là, giáo dục, tuyên truyền, kết thúc tính tích cực của cộng đồng, gia đình, cá nhân người tiêu dùng khi tham gia quan hệ thị trường. Đó là sự tỉnh táo trước “hội chứng đám đông” có thể gây rối loạn thị trường cũng như định hình hành vi tiêu dùng thông thái khiến doanh nghiệp coi trọng đạo đức kinh doanh, tôn trọng lợi ích người tiêu dùng, giảm thiểu các ngoại ứng tiêu cực. Phát huy tinh thần tương trợ chia sẻ trong cộng đồng xã hội để hỗ trợ, giúp đỡ những người yếu thế, kém may mắn.

3-Nhà nước là tổ chức đặc biệt duy nhất có quyền cấm hành pháp, thu thuế, sở hữu các tài sản công; lập quân đội, cảnh sát, công trình,... để duy trì quyền lực công cộng, đảm bảo quốc phòng, an ninh và môi trường thuận lợi cho phát triển. Tuy vậy, Nhà nước cũng thường gặp những “khuyết tật tự nhiên sinh ra của quyền lực”, như tham khinh, quan liêu, khinh quyền, có thể thâm nhập vào mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, tạo nên “khuyết tật” của thị trường và xã hội thêm trầm trọng. Chính sách và nguồn lực nhà nước thường được kéo theo lợi ích cục bộ của các bộ, ngành, địa phương. Dịch vụ công là khu vực dễ rơi vào trì trệ, thiếu năng động, vừa hạn chế đến chất lượng dịch vụ, vừa làm cho đối tượng nhận lương có tâm lý dựa vào, sử dụng thiếu trách nhiệm, tốt nhất là dịch vụ công miễn phí free. Nguồn lực nhà nước luôn gặp giới hạn, khó đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của xã hội.

Do đó, Nhà nước chỉ phát huy tốt vai trò, sức mạnh của mình cũng như hạn chế khuyết tật, kiểm soát lực lượng hiệu quả, khi vận dụng hợp lý các nguyên tắc thị trường vào quản trị công và phát huy toàn diện đủ quyền chủ sở hữu của nhân dân, cụ thể:

Một là , thực hiện công khai, minh bạch và chịu trách nhiệm giải quyết dự án Nhà nước vì dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực Nhà nước, dịch vụ công một cách công bằng, loại bỏ cơ chế “xin - cho”. Định hình cơ chế bắt giữ, tiếp nhận, xử lý hiệu quả thông tin thị trường, phản hồi xã hội để lập kế hoạch và thực thi luật pháp, chính sách sát hợp thực tiễn, hạn chế tối đa những chủ đề quan duy nhất có thể chí, bất chấp luật khách quan. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chống phòng, chống quan liêu, tham bất, tiêu cực.

Hai là , áp dụng một số nguyên tắc thị trường vào quản trị công. Áp dụng hình thức “sở hữu công, quản trị tư” để nâng cao hiệu quả quản trị các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, nhất là quản trị nhân sự, quản trị chất lượng product. Vận chuyển nguyên tắc cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ công cộng, trong cận kề các nguồn lực nhà nước như đấu thầu các gói đầu tư công, mua sắm công, để qua đó nguồn lực nhà nước được sử dụng hiệu quả hơn, thời hạn chế độ tham lam, lãng phí, nâng cao trách nhiệm phục vụ người dân và doanh nghiệp của công chức, viên chức.

Ba là người dẫn đầu khát vọng dân tộc, trách nhiệm xã hội và liêm chính kinh doanh của doanh nghiệp. Khát vọng, ý chí tự cường dân tộc là động lực vì doanh nghiệp nỗ lực vươn lên, giữ gìn thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới, đủ sức Cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, góp phần tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhà nước và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trách nhiệm xã hội và liêm chính kinh doanh kiến tạo doanh nghiệp không chỉ chạy theo lợi nhuận mà còn chia sẻ, chung tay cùng Nhà nước và xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, chăm lo cải thiện phúc lợi cho người lao động động tại doanh nghiệp.

Bốn là, nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nhân dân và truyền thông - báo chí. Dự thảo luật, chính sách đều lấy ý kiến phản biện của nhân dân thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng, được tiếp thu nghiêm trọng. Khi tổ chức thực thi chính sách, luật thì tăng cường giám sát xã hội để phát hiện những bất cập, những vấn đề mới phát sinh, những băn khoăn của người dân và doanh nghiệp để tập trung loại bỏ.

Năm là, huy động nguồn lực xã hội để bổ sung, bù đắp cho giới hạn của nguồn lực nhà nước. Nguồn lực đất đai, tài chính, nhân lực, giá trị văn hóa,... của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức Tôn giáo, gia đình, cá nhân được huy động bằng cơ chế phù hợp hiến phần xây dựng các công trình phúc lợi công cộng (như giao thông nông thôn, nhà trẻ, nhà văn hóa, vườn hoa, công viên...). Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) gắn với chế độ hợp tác đồng dài hạn, chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước và tư nhân có ý nghĩa tạo đột biến phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội vốn trước đây chỉ dựa vào đầu tư ngân hàng.

Sau đó, kết hợp thể chế luật pháp với thể chế xã hội, quản lý nhà nước với tự quản cộng đồng để nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội, tốt nhất là tại cộng đồng dân cư. Thể chế xã hội bao gồm biến các giá trị xã hội, tri thức kinh nghiệm hình thành từ lâu đời, trở thành nguyên tắc đạo đức, phong tục, tập quán điều chỉnh hành vi con người, khi được ứng dụng hợp lý, kết hợp với thể thức chính thức, sẽ giúp chuyển tải ý thức luật vào cuộc sống. Phát huy vai trò chơi tự quản của cộng đồng dân cư, bù đắp cho những giới hạn về nguồn lực của Nhà nước và giảm thiểu nguy cơ quan liêu khi khám phá ra bộ máy tổ chức, biên chế nhiều tầng đồ đạc khi vươn lên quản lý cộng đồng , thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở đối với những nội dung mà người dân có khả năng tự mình làm tốt hơn Nhà nước.

Bảy là, thúc đẩy tính tích cực của người dân trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ, tham gia công việc quản lý nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ định hình trên thực tế khi người dân có ý thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tự kiểm soát mọi hành vi không vượt qua quy định pháp luật và tiêu chuẩn đạo đức xã hội . Quyền phải gắn với nghĩa vụ, như đóng thuế đầy đủ đảm bảo nguồn thu ngân sách phục vụ lợi ích công cộng, sử dụng dịch vụ công cộng có trách nhiệm gắn với trách nhiệm đóng phí, chia sẻ nguồn lực với đồng tham gia phát triển xã hội.

4-“Xã hội vận động” hoạt động dựa trên sự kết hợp giữa thể chế luật và thể chế xã hội, trong đó thể chế xã hội có vai trò bổ sung, hỗ trợ cho thể chế luật. Tổ chức xã hội tập hợp những người có mục đích chung, theo nguyên tắc tự nguyện và không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động theo luật và điều kiện của tổ chức, Mục đích đáp ứng lợi ích chính đáng, hợp pháp của thành công viên và tham gia quản lý nhà nước. Tuy nhiên, mỗi cộng đồng hay tổ chức xã hội thường theo đuổi lợi ích riêng nhiều khi xung đột lẫn nhau, kể cả gây tổn hại đến lợi ích chung. Thành phần tham gia tổ chức xã hội không thuần nhất, liên kết trượt bệ, cầu phong phú, tư tưởng đa dạng, nên khi bị các thế lực xấu lợi dụng, kích động, lôi kéo, có trường hợp khởi sinh tư tưởng cực khoái. Tổ chức xã hội có ưu tiên giải quyết một số vấn đề tại cộng đồng vi mô hoặc một ngành, nghề cụ thể,

Vì vậy, vai trò, tính tích cực của xã hội và mỗi cá nhân con người chỉ được phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự quản lý thống nhất của Nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền, vận dụng hợp lý nguyên tắc thị trường và sự hợp tác, chia sẻ, đồng hành của doanh nghiệp, cụ thể:

Một là, luật là công cụ quan trọng hàng đầu đảm bảo quản lý hệ thống nhất của Nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp quyền, tạo khuôn khổ thể chế cho các chủ thể thị trường tự do cạnh tranh, các tổ chức xã hội , cộng đồng thực hiện tự quản, công dân được làm những điều luật không cấm, tự do của người này không cản trở tự do của người khác. Trong trường hợp này, sự quản lý hệ thống nhất của Nhà nước không đối lập với tự quản mà chỉ đối lập với cục bộ bệnh tật, bản vị, vô chính phủ; tự quản cộng đồng không đối lập với sự quản lý hệ thống nhất của Nhà nước mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên quyền, độc đoán.

Hai là, hoàn thiện cơ chế tài chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng nhận hỗ trợ từ Nhà nước, tài trợ từ doanh nghiệp, từ nước ngoài mà không bị hành chính hóa làm suy giảm tính độc lập và chức năng lực lượng giám sát, phản biện xã hội, hoặc bị chỉ đạo bởi ý đồ của các nhà tài trợ. Điều đó đảm bảo nguồn lực nhà nước, doanh nghiệp và xã hội được kết nối, phục vụ vì mục tiêu tốt đẹp; vì quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên; loại bỏ nguy cơ bị lợi dụng, hướng lái vì động cơ xấu của các thế lực thù địch, đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc.

Ba là,áp dụng nguyên tắc thị trường vào việc quản lý các tổ chức phi lợi nhuận. Nguồn lực của các tổ chức phi lợi nhuận được hình thành từ sự hỗ trợ của Nhà nước, tài trợ của doanh nghiệp và hoạt động kinh tế - tài chính của tổ chức. Can to convert the method support the resource resource from based on the base Bank “đầu vào” sang dựa trên kết quả “đầu ra”, tốt nhất là đấu thầu các gói dịch vụ sử dụng ngân sách chính gắn với tiêu chuẩn xác định duy nhất , cụ thể định mức sản phẩm. Hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận không có nghĩa là hút từ lợi nhuận, mà thậm chí chí phải tìm cách tạo ra lợi nhuận một cách chuyên nghiệp, nhưng lợi nhuận đó không chia cho các thành viên hội đồng quản trị mà được tái sinh tư vấn phục vụ cho mục tiêu phát triển xã hội. Vì vậy, các tổ chức phi lợi nhuận cần chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh tế để đảm bảo nguồn gốc bền vững cho hoạt động của doanh nghiệp,

Bốn là, phát huy dân chủ rộng rãi, thực chất, đi đôi với váy ôm kỷ cương, cấp nước, phòng ngừa và ngăn chặn các biểu hiện lợi dụng quyền tự do, dân chủ mà xâm nhập lợi ích người khác, vi luật, đe doạ tấn công an ninh xã hội. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng tự do, dân chủ để tập hợp lực lượng, gây ảnh hưởng, chờ thời cơ thì công khai phản đối nước Nhà, đi ngược lại lợi ích nhân dân. Tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục gắn với tăng cường kỷ cương, cấp nước, đảm bảo cho các tổ chức xã hội hoạt động đúng luật và điều lệ, mang lại lợi ích thiết thực cho hội viên, đoàn viên and land water.

Năm là,kết nối nguồn lực, cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức công đoàn để cải thiện phúc lợi cho người lao động tại doanh nghiệp. Thể chế luật tiến bộ về lao động và quan hệ lao động có vai trò thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trước hết là đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tại doanh nghiệp (quyền công đoàn, đóng bảo hiểm, môi trường lao động an toàn, chế độ nghỉ dưỡng, đào tạo tay nghề...). Đồng thời, xác định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc bảo đảm phúc lợi cho người lao động (như quy định phế thải, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nhà ở xã hội, thiết chế văn hóa, trường học) học, trạm y tế,... tại khu công nghiệp), ưu tiên thu hút các nhà đầu tư cam kết thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, hợp tác với tổ chức công đoàn để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định,

Sau đó là,thúc đẩy liên kết, hợp tác, chia sẻ, cùng hành động giữa Nhà nước, doanh nghiệp với các lực lượng xã hội, đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Đó là cơ chế bảo đảm Nhà nước gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết những bức xúc của nhân dân. Đó là cơ chế liên kết “bốn nhà” (nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) để thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, giải quyết hạn chế của nền sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ, manh mún , tính tự phát của thị trường tác động tiêu cực đến đời sống nông dân. Đó là kết thúc hình thành hệ thống sinh thái đổi mới sáng tạo, gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, phòng nghiên cứu, trường đại học, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, nhà khoa học là động lực, bảo đảm ứng dụng, thương mại thương mại hóa các sáng chế, phát triển thị trường khoa học - công nghệ,

Anh-tin-bai

Kiểm tra chất lượng giống cây trồng mới trong phòng nuôi cấy mô vô trùng _Ảnh: TTXVN

5- Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số, xã hội số. Đại hội đề ra nhiệm vụ: “Phát triển hạ tầng và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp thuận lợi, an toàn cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn” (6) . Quan điểm phát triển của “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030” xác định: “Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt thời cơ, tận dụng hiệu quả của cơ hội Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số” (7) ...

Định hướng bao trùm là thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng phủ chính số; đứng trong nhóm 50 quốc gia đứng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về phủ chính điện tử và kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia. Thúc đẩy chuyển đổi số nhanh đối với một số ngành, lĩnh vực đã có điều kiện, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), trong 3D, internet kết nối vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao hiệu suất, hiệu quả của nền kinh tế.  

Xây dựng hệ thống pháp luật thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. “Phải coi trọng hơn việc quản lý phát triển xã hội; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ kỷ luật, kỷ cương” (8) . Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối, liên thông các cơ sở dữ liệu lớn nhất, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ đúng lúc, hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

“Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết sản phẩm đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục” (9 ) . 

Chủ trương, nêu hướng chỉ ra rằng quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số lượng được tiến hành cả ở tầm quản trị quốc gia và quản trị từng phân hệ - lĩnh vực của đời sống, từ quản lý - quản trị value to the output tổ chức, kinh doanh và dịch vụ. Vì thế, quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số bao hàm cả mặt thúc đẩy phát triển, tận dụng cơ hội mà xã hội thông tin mang lại và đấu tranh, Ngăn chặn, phòng ngừa những tác động tiêu cực. Không gian mạng trở thành chiến trường chính của cuộc chiến thông tin, đấu tranh với các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, bảo vệ chân lý, có thể phải, các giá trị của chủ nghĩa xã hội hội.

Thực hiện chủ trương, định hướng quản lý nêu trên yêu cầu phát huy đầy đủ cả vai trò Nhà nước, thị trường và xã hội. Vai trò của Nhà nước không chỉ là kiến tạo thể chế, luật cho cấu hình thành mô hình kinh doanh mới, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển xã hội số mà còn đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ, phát triển hạ tầng số, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng chính phủ số, đầu tư xây dựng dữ liệu phục vụ cả quản lý nhà nước, đảm bảo quyền hạn cận kề của người dân và doanh nghiệp. Nhà nước Việt Nam đi tiên phong không chỉ tạo “cung”, mà cả tạo “cầu” để phát triển kinh tế số, xã hội số, nhất là thúc đẩy các dự án quản lý xã hội được hóa, điển hình là dữ liệu quốc gia về dân cư và các dự án số hóa. Chủ quyền không gian mạng trở thành một bộ phận của chủ quyền quốc gia gắn chặt với vai trò đảm bảo an ninh mạng của Nhà nước. Tác chiến trên môi trường không gian mạng cũng lấy lực của các cơ quan nhà nước làm nòng cốt. Vai trò của doanh nghiệp được thúc đẩy đầu tư vào các ngành, nghề kinh doanh mới, thương mại điện tử, ứng dụng khoa học - công nghệ,... đồng thời, có thể tham gia hợp tác phát triển hạ tầng, main overnumber,... information through the tools can; có quyền tiếp cận các thông tin dữ liệu một cách công bằng, minh bạch. Liêm chính doanh nghiệp của doanh nghiệp trên môi trường không gian mạng đóng góp các phần thúc đẩy trách nhiệm xã hội, nhất là loại bỏ các thông tin xấu, độc, tin rác, tin giả hay hành vi trốn thuế, đảm bảo quyền hạn của lao động khu vực làm việc kinh tế chia sẻ. Vai trò của xã hội tham gia vào quản trị xã hội số ngày càng quan trọng khi hoạt động với tư cách là công dân số. Xây dựng phủ chính số thành công sẽ thúc đẩy công khai, minh bạch, đặt hoạt động của các cơ quan nhà nước và công tác tổ chức trước các giám sát viên của xã hội cũng như tăng cường năng lực phản hồi xã hội trước tác động của mỗi quyết định quản lý. Nếu ứng dụng cộng đồng mạng xử lý có trách nhiệm trên không gian mạng, thì sẽ là nền tảng xã hội đóng góp phần đảm bảo an ninh mạng. Mỗi công dân số tham gia hoạt động truyền thông, thương mại điện tử,... có trách nhiệm sẽ đóng góp phần xây dựng xã hội số có kỷ cương, trật tự, đề kháng có hiệu quả trước mọi hoạt động chống phá của các thành phố thế chủ yếu trên môi trường không gian mạng./.

PGS, TS ĐOÀN MINH HUẤN

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Nguồn tapchicongsan.org.vn

------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5) Xem: Văn kiện Đại hội biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. tôi, tr. 130 – 131, 131, 133, 133, 131 – 132
(6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd , t. tôi, tr. 142, 214, 215