Chỉ thị của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động
Trang Thông tin
điện tử Đảng ủy khối Doanh nghiệp tỉnh trân trọng giới thiệu toàn văn Chỉ thị
số 31.
Sau 10 năm thực
hiện Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 18/9/2013 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác an
toàn, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, tỉ lệ tai nạn lao động nghiêm trọng giảm. Nhận
thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, người lao động và xã hội được nâng lên. Chính sách, pháp luật về
an toàn, vệ sinh lao động tiếp tục được hoàn thiện, mở rộng phạm vi áp dụng cho
khu vực không có quan hệ lao động.
Công tác chăm sóc sức khoẻ người lao
động, cải thiện điều kiện làm việc và cơ chế hỗ trợ rủi ro cho doanh nghiệp và
người lao động được quan tâm hơn. Ảnh minh họa
Công tác phòng
ngừa, đánh giá rủi ro, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, có hại; chăm sóc sức
khoẻ người lao động, cải thiện điều kiện làm việc và cơ chế hỗ trợ rủi ro cho
doanh nghiệp và người lao động được quan tâm hơn. Tăng cường trách nhiệm quản
lý nhà nước, phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan, tổ
chức và địa phương. Mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh xã hội hoá,
phát triển dịch vụ huấn luyện, kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, quan trắc
môi trường lao động.
Tuy nhiên, công
tác an toàn, vệ sinh lao động chưa đáp ứng yêu cầu, số vụ tai nạn lao động chưa
giảm, bệnh nghề nghiệp chưa được quan tâm, nhất là trong khu vực không có quan
hệ lao động. Một số cấp uỷ, chính quyền, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
người lao động chưa coi trọng công tác an toàn, vệ sinh lao động; nguồn lực đầu
tư, công tác quản lý nhà nước có mặt còn hạn chế; chưa chú trọng đúng mức công
tác phòng ngừa, thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý vi phạm. Ý thức
chấp hành pháp luật của người lao động, người sử dụng lao động chưa nghiêm.
Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến về an toàn, vệ sinh lao
động chưa theo kịp thực tiễn.
Để đẩy mạnh
công tác an toàn, vệ sinh lao động đáp ứng yêu cầu tình hình mới gắn với Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Ban Bí thư yêu cầu
các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm sau:
1. Bảo đảm
quyền của người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn, vệ sinh lao
động và bảo vệ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức
đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người lao động.
Tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa
với phát hiện, xử lý nghiêm vi phạm. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu đối với
công tác an toàn, vệ sinh lao động, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài,
có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh con
người, góp phần cho phát triển bền vững doanh nghiệp và đất nước.
Phấn đấu giảm
tai nạn lao động, nhất là tai nạn lao động nghiêm trọng, tỉ lệ tai nạn lao động
chết người giảm ít nhất 4%/năm; số người lao động làm việc trong môi trường
tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ được khám, phát hiện bệnh nghề nghiệp tăng
ít nhất 5%/năm; số cơ sở phát sinh yếu tố có hại được quan trắc môi trường lao
động tăng ít nhất 5%/năm.
2. Thường xuyên
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, người sử dụng
lao động và người lao động. Tạo điều kiện cho người lao động, nhất là người làm
việc trong khu vực không có quan hệ lao động được tiếp cận thông tin về những
vấn đề liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm, chủ động phòng ngừa.
Đổi mới nội
dung, đa dạng hoá hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối
tượng lao động, quan tâm ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao. Nâng cao hiệu quả, thu
hút sự tham gia của doanh nghiệp, người lao động trong Tháng hành động về an
toàn, vệ sinh lao động, Tháng Công nhân hằng năm.
Phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần
chúng, các cơ quan báo chí trong vận động, tuyên truyền, xây dựng văn hoá an
toàn lao động trong hội viên, đoàn viên và nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động đối
thoại, thương lượng về bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động và điều kiện làm việc,
góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ.
3. Rà soát, bổ
sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, khắc phục kịp thời hạn chế, bất cập
trong thực tiễn, chú trọng chính sách phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro
về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của người lao động,
người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn và các tổ chức có liên quan; chế độ
bảo hộ lao động và chăm sóc sức khoẻ người lao động; biện pháp phòng ngừa, ứng
phó, xử lý sự cố tai nạn lao động; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn,
vệ sinh lao động… bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với các điều
ước quốc tế Việt Nam tham gia, tiếp cận tiêu chuẩn thế giới.
4. Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phân cấp, phân quyền, thường xuyên kiểm
tra, thanh tra, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực hiện nghiêm; thực hiện
tốt Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động. Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhất là thủ tục hành chính theo hướng thiết thực, đơn giản, công khai,
minh bạch, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, người lao động.
Xây dựng cơ sở
dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, tiếp nhận và báo cáo tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về an toàn, vệ
sinh lao động; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác đào tạo,
chuyên gia với các nước.
Chú trọng công
tác đánh giá tác động môi trường, nhất là đối với các dự án đầu tư khai thác,
sản xuất công nghiệp, xây lắp, nơi có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm; kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc; thường
xuyên rà soát, bổ sung danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,
bệnh nghề nghiệp. Thực hiện nghiêm việc khai báo, thống kê, báo cáo, điều tra
sự cố gây mất an toàn, vệ sinh lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Quan tâm an
toàn, vệ sinh lao động đối với các nhóm lao động nữ, chưa thành niên, người
khuyết tật, người cao tuổi, giúp việc gia đình, người học nghề, tập nghề, thử
việc và lao động được cho thuê lại, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Thực hiện tốt chính sách khám sức khoẻ định kỳ, giám định, chăm sóc sức khoẻ,
phục hồi chức năng, điều trị, tiền lương, chi phí y tế, trợ cấp, bồi thường,
bảo hiểm và các chính sách khác theo quy định cho người bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
Quản lý chặt
chẽ các dịch vụ huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; quan trắc môi trường lao
động; khám sức khoẻ định kỳ, khám và phát hiện bệnh nghề nghiệp; kiểm định máy,
thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Nâng cao chất
lượng các cơ sở y tế khám, điều trị bệnh nghề nghiệp; cơ sở điều dưỡng, phục
hồi chức năng lao động; bộ phận an toàn, vệ sinh lao động, bộ phận y tế, hội
đồng an toàn, vệ sinh lao động tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu
cầu.
5. Kiện toàn tổ
chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng công tác đào tạo,
huấn luyện, chuyển giao, cập nhật kiến thức, kỹ năng an toàn, vệ sinh lao động,
phòng, chống bệnh nghề nghiệp, nhất là đối với người làm công tác an toàn, vệ
sinh lao động, y tế tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh; thanh tra lao
động, thanh tra an toàn, vệ sinh lao động, bao gồm cả khu vực không có quan hệ
lao động. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong
chăm sóc sức khoẻ người lao động, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.
6. Tăng cường
nguồn lực Nhà nước và doanh nghiệp đầu tư cho công tác an toàn, vệ sinh lao
động gắn với đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, ưu
tiên bố trí nguồn lực để triển khai các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp đối với cả khu vực không có quan hệ lao động. Các cấp uỷ, tổ
chức đảng, chính quyền quan tâm lồng ghép nội dung an toàn, vệ sinh lao động
trong chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương;
chương trình, dự án liên quan đến lĩnh vực lao động, y tế, môi trường.
Đẩy mạnh xã hội
hoá, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho công
tác an toàn, vệ sinh lao động. Khuyến khích doanh nghiệp chủ động đầu tư, triển
khai biện pháp phòng ngừa, tăng cường công tác tự kiểm tra, giảm thiểu tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả Quỹ bảo
hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo hướng đóng, hưởng linh hoạt, nâng
mức hưởng, mức hỗ trợ phù hợp cho người thụ hưởng bảo đảm ổn định cuộc sống, mở
rộng và phát triển nhanh đối tượng tham gia bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện
có sự hỗ trợ của Nhà nước.
7. Nâng cao
hiệu quả công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, nhất là các ngành
lao động, y tế, môi trường với địa phương, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh
doanh theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chú trọng khu vực không có quan hệ
lao động. Kịp thời phát hiện, nhân rộng, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá
nhân, mô hình hay, cách làm hiệu quả và xử lý nghiêm vi phạm, nhất là tổ chức,
cá nhân để xảy ra sự cố nghiêm trọng về an toàn, vệ sinh lao động.
8. Tổ chức thực
hiện
- Các tỉnh uỷ,
thành uỷ, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương
lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền, cụ thể hoá, tổ chức thực hiện có
hiệu quả Chỉ thị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, thực tiễn của cơ
quan, địa phương, đơn vị.
- Đảng đoàn
Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan; bố trí nguồn lực; tăng
cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị.
- Ban cán sự
Đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Kế hoạch thực hiện Chỉ thị; tổ chức
thực hiện tốt Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2021
- 2025 và các năm tiếp theo; tăng cường năng lực quản lý nhà nước cho các bộ,
ngành có liên quan, chính quyền địa phương.
- Đảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội khác, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao
nhiệm vụ tăng cường công tác vận động, tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội
góp phần thực hiện tốt Chỉ thị.
- Ban Kinh tế
Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội và các cơ quan liên quan hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, sơ kết,
tổng kết báo cáo Ban Bí thư kết quả thực hiện Chỉ thị.
Chỉ thị này phổ
biến đến các chi bộ.
Theo P.V (baochinhphu.vn)