Dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) và ý kiến doanh nghiệp
Theo
đó, Dự thảo Luật Thuế giá trị gia
tăng (GTGT) (sửa đổi)
đã thu hẹp một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang thuộc đối tượng không chịu thuế; đồng
thời, sửa đổi, bổ sung một số nhóm hàng hóa, dịch vụ để tháo gỡ khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính; sửa đổi, bổ sung
một số nhóm hàng hóa, dịch vụ nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ
thống pháp luật.
Dự thảo Luật Thuế GTGT được cho là có nhiều điểm mới đáng chú ý
Theo ý kiến chung,
Luật Thuế GTGT qua hơn 15 năm thực hiện, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mặc
dù nền kinh tế trong nước có những giai đoạn gặp không ít khó khăn, thách thức
do ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới và những bất ổn toàn cầu, nhưng số thu về
thuế GTGT vẫn khá ổn định và tăng trưởng đều qua các năm. Tuy nhiên, qua quá
trình triển khai thực hiện, chính sách thuế GTGT đã dần bộc lộ không ít tồn
tại, hạn chế.
Một trong những hạn chế mà các doanh nghiệp
xuất khẩu quan tâm là thuế GTGT đối với dịch vụ xuất khẩu. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Xuất khẩu hàng
hoá luôn là động lực tăng trưởng quan trọng với tốc độ tăng trung bình gần 15%
mỗi năm. Trong đó, vai trò của chính sách thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu
được hưởng thuế suất 0% và doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào đóng vai trò
quan trọng. Thực tế, tuy vẫn còn tình trạng doanh nghiệp gian lận để trục lợi
hoàn thuế, nhưng điều đó không thể phủ nhận ích lợi to lớn của chính sách thuế
xuất khẩu hàng hoá 0%. Tuy nhiên, tình trạng này đã được hạn chế rất nhiều
trong những năm gần đây.
Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép
hưởng thuế suất 0% đối với dịch vụ xuất khẩu. Nhưng theo phản ánh của nhiều
doanh nghiệp, họ vẫn thường bị áp mức thuế 10% do cán bộ thuế không phân biệt
được đâu là dịch vụ tiêu dùng trong nước, đâu là dịch vụ xuất khẩu. Xuất phát
từ lý do khó khăn trong thực thi này, Dự thảo đã đề xuất không cho phép dịch vụ
xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% nữa, mà thay vào đó là áp thuế 10%. Các lĩnh
vực dịch vụ xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0% chỉ còn vận tải quốc tế, cho
thuê phương tiện vận tải ngoài lãnh thổ Việt Nam và một số dịch vụ liên quan.
Các lĩnh vực dịch vụ khác sẽ phải chịu thuế suất tương ứng (về cơ bản là mức
10%).
Theo xu thế hiện nay, cùng với xu
hướng tăng trưởng thương mại dịch vụ quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới, xuất khẩu dịch vụ tại Việt Nam là một trong những lĩnh vực đang có tiềm
năng phát triển lớn và bền vững, đạt khoảng 20 tỷ đô la vào năm 2023. Tốc độ
tăng trưởng trung bình khoảng 11% mỗi năm, thậm chí cao hơn so với tăng trưởng
GDP. Hơn nữa, Việt Nam đang nhập siêu dịch vụ ở mức hơn 10 tỷ đô la mỗi năm. Các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuất khẩu thường không yêu cầu vốn đầu tư quá lớn
như các ngành khác. Việc xuất khẩu dịch vụ trên môi trường Internet như hiện
nay còn giúp quảng bá hình ảnh đất nước và làm gia tăng sức mạnh mềm của quốc
gia.
Do đó, việc phải chịu thuế suất 10%
khi xuất khẩu sẽ khiến các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho nước ngoài gặp khó
khăn khi cạnh tranh với đối thủ đến từ các quốc gia khác. Theo một khảo sát sơ
bộ của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các quốc gia khác
đều áp thuế suất 0% cho dịch vụ xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp được hoàn
thuế đầu vào. Nhiều doanh nhiệp xuất khẩu cho rằng, thời gian qua, để bảo đảm
hạch toán riêng giữa doanh thu từ người dùng trong nước và người dùng nước
ngoài, doanh nghiệp đã buộc phải tách sản phẩm thành hai phiên bản để cung cấp
cho hai thị trường khác nhau. Tuy nhiên, giải pháp này phát sinh nhiều vấn đề
và làm tăng chi phí vận hành, cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu mở doanh
nghiệp tại Việt Nam cung cấp cho người dùng nước ngoài, sản phẩm sẽ phải chịu
hai lần thuế GTGT cho hai quốc gia. Trong khi mở doanh nghiệp tại nước ngoài để
cung cấp cho người dùng tại Việt Nam thì doanh nghiệp chỉ phải chịu một lần
thuế GTGT tại Việt Nam.
Theo VCCI, nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, cần duy trì quy định dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và
giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp phân loại dịch vụ xuất khẩu và dịch
vụ tiêu dùng trong nước.
Dự kiến thông qua Luật Thuế GTGT sửa đổi vào tháng 10 năm 2024 (Ảnh Internet)
Đối với ngưỡng doanh thu không chịu
thuế, Điều 5.25 của Dự thảo đã nâng ngưỡng doanh thu này của hộ gia đình, cá
nhân kinh doanh từ 100 triệu đồng/năm lên 150 triệu đồng/năm. Quy định này sẽ
giúp nhiều cá nhân, hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ không phải thực hiện việc kê
khai và nộp thuế. Theo Bộ Tài chính, từ khi Luật Thuế GTGT sửa
đổi năm 2013, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT năm 2008 có hiệu lực cho đến
nay, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng nhiều. Việc điều chỉnh mức doanh thu
bán hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, hộ kinh doanh cho phù hợp với mức biến động
của giá cả là cần thiết. Bản thân nhiều hộ kinh doanh cũng mong muốn sự hỗ trợ
của nhà nước trong thời điểm khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp thì ngưỡng doanh thu
chịu thuế 150 triệu đồng/năm vẫn tương đối thấp.
Lý giải về vấn đề này, ông Đậu Anh
Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban pháp chế VCCI so sánh giữa cá nhân kinh
doanh và cá nhân làm công ăn lương sẽ thấy sự chênh lệch và bất hợp lý. Hiện
nay, cá nhân làm công ăn lương có mức giảm trừ gia cảnh đối với trường hợp
không có người phụ thuộc 132 triệu đồng/năm, nếu có một người phụ thuộc 184,8
triệu đồng/năm, nếu có hai người phụ thuộc 237,6 triệu đồng/năm. "Nếu giả định trung bình mỗi người lao động có 1 người phụ
thuộc thì ngưỡng thu nhập chịu thuế đối với người làm công ăn lương vẫn cao hơn
ngưỡng doanh thu chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Đấy là còn chưa tính đến
việc để có thể có doanh thu của cá nhân kinh doanh thì họ phải đầu tư các chi
phí đầu vào, trong khi thu nhập cá nhân thường không có các khoản chi phí này",
ông Tuấn chia sẻ. Cũng theo ông Tuấn, cần cân nhắc mức doanh thu chịu thuế lên
khoảng 180 đến 200 triệu đồng là phù hợp và phân loại theo ngành nghề tương tự
tại Điều 12.2b của Dự thảo về phương pháp tính thuế trực tiếp.
Một số doanh nghiệp cũng phản ánh tình
trạng bất bình đẳng về thuế GTGT khi tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình
tập đoàn kinh tế mà có sản phẩm trung gian thuộc diện không chịu thuế, như
ngành sữa là một ví dụ. Để giải quyết vấn đề này, doanh nghiệp đề nghị cần
nghiên cứu cơ chế cho phép các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình tập đoàn
kinh tế được phép hạch toán tập trung cả tập đoàn, thay vì hạch toán riêng từng
công ty con như hiện nay. Một cơ chế như vậy sẽ giúp các doanh nghiệp không
phải nộp nhiều thuế hơn khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế.
Theo Luật hiện hành, hàng hoá, dịch vụ
thuộc diện biếu tặng cho trong nước vì mục đích từ thiện vẫn thuộc diện chịu
thuế với giá tính thuế được xác định bằng với giá của hàng hoá, dịch vụ cùng
loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này. Dự thảo mới chỉ
coi hàng hoá nhập khẩu ủng hộ, tài trợ cho phòng chống thiên tai, thảm hoạ dịch
bệnh, chiến tranh được xếp vào diện không chịu thuế.
Nhiều ý kiến cho rằng, quan điểm, chủ
trương chung của Đảng và Nhà nước là khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân thực
hiện trách nhiệm xã hội. Pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện cũng đã
coi chi phí ủng hộ địa phương đoàn thể, tổ chức xã hội, chi từ thiện… là chi
phí được trừ. Trong trường hợp doanh nghiệp cho biếu tặng hàng hoá, dịch vụ vì
mục đích từ thiện, doanh nghiệp không phát sinh doanh thu; nếu phải nộp thuế GTGT
cho lượng hàng hoá, dịch vụ này, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn thu
khác, như vậy là bất hợp lý. Vậy nên Điều 7.1.c cần được cân nhắc, bổ sung theo
hướng hàng hoá dịch vụ này với mục đích từ thiện thì giá tính thuế được xác
định bằng không.
Về thuế GTGT của doanh nghiệp chế
xuất khi bán hàng vào nội địa, một số doanh nghiệp chế xuất phản ánh
tình trạng họ đang phải nộp thuế GTGT hai lần cho cùng một lượng hàng hoá. Theo
đó, khi doanh nghiệp trong khu chế xuất bán hàng hoá vào nội địa sẽ phải mở tờ
khai nhập khẩu và phải nộp thuế GTGT một lần cho lượng hàng hoá này. Cơ quan
thuế sau đó vẫn yêu cầu doanh nghiệp kê khai và nộp thuế GTGT cho lượng hàng
hoá đó. Do vậy, doanh nghiệp đề nghị phải có quy định rõ theo hướng doanh
nghiệp chế xuất khi bán hàng hoá vào nội địa sẽ phải nộp thuế GTGT khi làm thủ
tục hải quan mà không phải nộp thuế GTGT cho hàng hoá đó theo kỳ tính thuế nữa.
Thuế GTGT là sắc thuế quan trọng, là
nguồn thu lớn và chủ yếu của NSNN. Từ khi ra đời, Luật Thuế GTGT đã đi vào cuộc
sống và có tác động rất tích cực trên một số khía cạnh như khuyến khích đầu tư,
xuất khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc biệt, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp nắm chắc phương pháp tính thuế, giảm thiểu rủi ro trong quá trình khai
báo thuế. Theo ý kiến của các chuyên gia, Luật Thuế GTGT sau khi được sửa đổi,
bổ sung sẽ hoàn thiện các quy định về chính sách thuế GTGT, bao quát toàn bộ
các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt
động quản lý thuế trong phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; hóa giải và tháo gỡ những bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật thuế GTGT và
bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các pháp luật liên quan./.
PHAN DUY HÙNG (Chi nhánh VCCI Nghệ An – Hà Tĩnh – Quảng
Bình)