Quản lý điện tử hoạt động thuế: giới hạn giải pháp và giải quyết vấn đề hoàn thiện
Trong thời gian qua, sự phát triển của công nghệ đã giúp thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam ngày càng mở rộng, trở thành phương thức kinh doanh phổ biến và quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra nhiều công thức cho công tác quản lý thuế. Trên cơ sở pháp lý thực tế về quản lý thuế TMĐT, bài viết sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế trong lĩnh vực này.
Hành lang pháp lý quản lý thuế
TMĐT còn nhiều chế độ
Hiện hành, các quy định pháp luật
về thuế trong lĩnh vực TMĐT được điều chỉnh bởi Luật Quản lý thuế số
38/2019/QH14. Cụ thể, Luật Quản lý thuế năm 2019 đã bổ sung quy định về kê
khai, phụ trách hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và
các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường
xuyên tại Việt Nam. Trên cơ sở quy định của Luật Quản lý thuế, Nghị định số
126/2020/ND-CP đã quy định chi tiết một số nội dung cụ thể có liên quan đến quản
lý thuế hoạt động kinh doanh TMĐT của tổ chức, cá nhân.
Theo đó, trường hợp tổ chức hợp
tác kinh doanh với cá nhân (trong mọi lĩnh vực bao gồm cả TMĐT) thì cá nhân
không trực tiếp khai thuế mà tổ chức hợp tác có trách nhiệm kê khai thuế VAT
cho toàn bộ doanh thu hoạt động hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật
về thuế và quản lý thuế, không phân biệt công thức phân chia kết quả hoạt động
kinh doanh hợp lý, đồng thời khai thay và nộp thuế TNCN cho cá nhân hợp tác
kinh doanh . Bên bờ đó, Nghị định số 91/2022/ND-CP cũng quy định chủ sở hữu sàn
TMĐT có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác và hạn chế thông tin của thương
nhân, tổ chức, cá nhân có tiến hành một một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán
hàng hóa, dịch vụ trên sàn giao dịch TMĐT cho cơ quan thuế. Điều này có nghĩa
là sàn TMĐT chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin sản xuất hóa đơn trên sàn
TMĐT cho cơ quan chức năng mà không có nghĩa vụ nộp thuế thay người bán. Ngoài
ra, Nghị định số 125/2020/ND-CP cũng quy định, if vi phạm về thời hạn đăng ký
thuế (quá thời hạn quy định) thì tổ chức, cá nhân kinh doanh sẽ bị xử lý từ 1
triệu đồng 10 triệu đồng; Tax khai báo hồ sơ quá thời hạn bị xử lý từ 2 triệu đồng
đến 25 triệu đồng. Trường hợp hộ, cá nhân kinh doanh trên sàn TMĐT không giải
phóng hồ sơ đăng ký thuế; không hoàn thuế sơ khai hoặc giảm thuế sơ khai sau 90
ngày, kể từ ngày hết hạn nộp thuế sơ khai thì bị phạt tiền từ 1 đến 3 lần số
thuế trốn. Trường hợp trốn thuế với số tiền từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu
đồng, hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử lý phạt vi phạm hành chính về
hành vi trốn thuế thì phải được truy cứu trách nhiệm về tội phạm trốn thuế theo
Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Những quy định
này đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế đối với hoạt động
TMĐT, đồng thời đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong công việc đóng góp
nghĩa vụ thuế vào NSNN.
Mặc dù vậy, qua nghiên cứu đã cho
thấy, các quy định về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT vẫn có những chế độ hạn
chế. Do nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT tại Việt Nam không tiến hành
đăng ký kinh doanh, nên cơ quan nhà nước khó theo dõi, quản lý, xác định đối tượng,
nhất là đối với loại hình quảng cáo trực tuyến, bán hàng qua mạng xã hội (như
thông qua Google, Facebook, Zalo...). Trong đó, các hành vi mà DN vi phạm thường
là không kê khai hoặc kê khai sai, không đủ doanh thu thuế GTGT; không kê khai
thuế nhà thầu đối với dịch vụ của một số công ty đa quốc gia có phát sinh ở Việt
Nam. Chưa kể, trong khi hoạt động bán hàng trực tuyến qua mạng xã hội của các tổ
chức, cá nhân đang phát nhanh, thì cơ quan quản lý lại thiếu chế độ để tiến
hành thu thuế kinh doanh khi phát sinh giao dịch.
Cùng với đó, hoạt động TMĐT chưa
có trong danh mục ngành nghề kinh doanh dẫn đến khó khăn trong việc xác định bản
chất, loại hình để đánh thuế, trong khi thực tế xuất hiện nhiều cá nhân thực hiện
giao dịch dịch mua-bán tiền “ảo”, chuyển nhượng các sản phẩm “ảo” trong game
hay cho thuê ứng dụng để đặt quảng cáo trực tuyến có doanh thu lên đến hàng tỷ
lệ đồng, thậm chí chí hàng tỷ lệ đồng nhưng không kê khai , nộp đủ thuế.
Ngoài ra, mặc dù Thông tư số
100/2021/TT-BTC yêu cầu chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT thực hiện công việc khai
thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân dựa trên ủy quyền theo quy định của pháp
luật dân sự. Song, thực tế không có ít trường hợp không tự khai ủy quyền, kê
khai, nộp thuế thay thế mà chỉ cung cấp thông tin cho cơ quan thuế khi có yêu cầu,
từ đó tạo ra thời gian để một số cá nhân kinh doanh trên các cách TMĐT lợi ích
trốn thuế. Thêm vào đó, Thông số 100/2021/TT-BTC cũng chưa được xác định rõ về
nội dung thông tin phải cung cấp, biểu thức và tần số cung cấp thông tin cho cơ
chế thuế của các sàn giao dịch TMĐT. Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và các văn
bản dưới luật quy định về quản lý trang web cũng chưa có chế độ bắt buộc các
công ty có trang web bán hàng, các trang mạng xã hội phải đăng ký trên sàn giao
dịch điện tử và các trang mạng xã hội nếu không đăng ký với Cục Thương mại điện
tử và Kinh tế số (Bộ Công thương). Điều này cho thấy, việc thiếu quy định pháp
lý giải phóng trách nhiệm của DN cung cấp dịch vụ trên mạng không gian lận đã
không gây thất bại về thuế cho NSNN mà vẫn tạo ra sự bất bình đẳng trong quản
lý thuế giữa loại hình kinh doanh truyền thống và TMĐT.
Đề xuất hoàn thiện công việc
quản lý thuế TMĐT
Trước thực trạng trên, để thực hiện
tốt công tác quản lý và thu thuế TMĐT trong bối cảnh nền kinh tế số, tác giả đề
xuất phát triển khai một số biện pháp sau:
Một là, củng cố căn cứ pháp lý. Cần
sửa đổi và hoàn thiện các luật liên quan như Luật Thuế VAT, Luật Thuế TNCN, Luật
Quản lý thuế… theo hướng có điều chỉnh rõ ràng và chi tiết để áp dụng nguyên tắc
thu thuế VAT tại nguồn trong hoạt động động TMĐT. Việc này sẽ giúp tạo ra một
khung pháp lý mạnh mẽ, cung cấp hướng dẫn rõ ràng cho các DN và người dùng về
các nghĩa vụ thuế khi tham gia vào TMĐT.
Hai là, xây dựng cơ chế thu thập
và xử lý tín hiệu hữu ích. Để làm được điều này cơ quan thuế cần phải có nghiên
cứu rất kỹ lưỡng về xu hướng phát triển trong hiện tại và tương lai của TMĐT để
lựa chọn kênh thu thập thông tin có hiệu quả cao. Bên cạnh đó cần có sự phân phối
hợp lý với các cơ quan, ban, ngành liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Công thương, Ngân hàng Nhà nước, Cục An ninh mạng và Bộ Công an... để có có
thể thu thập các thông tin mang tính chất đa chiều. Điều này giúp đảm bảo rằng thông
tin về thu nhập và tiêu dùng từ các nền tảng TMĐT được kiểm soát và quản lý một
cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở chắc chắn cho thu ngân sách và ngăn chặn các
hành vi trốn thuế.
Ba là, hoàn thiện cấu hình cơ sở
của bộ máy quản lý thuế (nhất là đối với TMĐT), đảm bảo phân bổ nguồn năng lượng
tối ưu hơn để nâng cao hiệu quả quản lý của cơ sở thuế trong lĩnh vực TMĐT. Có
thể nghiên cứu thành lập một đơn vị chuyên trách để quản lý thuế đối với hoạt động
TMĐT. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện về các hình thức
kinh doanh TMĐT, các kỹ năng đặc biệt cho cán bộ kỹ năng thanh tra, kiểm tra
máy tính, phương pháp thu thập, truy dấu dấu vết giao dịch, phân tích và khôi phục
dữ liệu kinh doanh của DN nhắm vào người nhận thuế không đóng góp, phục vụ
thanh tra, kiểm tra người nộp thuế.
Tài liệu tham khảo
- “Kinh tế số, thương mại điện tử
đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống”, đăng trên https://baodautu.vn/kinh-te-so-thuong-mai-dien-tu-da-len-
loi-vao-moi-ngoc-ngach-cua-cuoc-song-d222378.html truy cập ngày
15/10/2024
- “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế số tại Việt Nam”, đăng trên https://kinhtetrunguong.vn/web/guest/nghien-cuu-trao-doi/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-kinh-te-so-tai-viet-nam.html ,
truy cập 30/10/2024
- “Quản lý thuế đối với thương mại điện tử - Nhìn từ kinh nghiệm của thế giới”,
đăng trên https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM140490 truy
cập ngày 11/1/2024
- Lê Thị Thùy Linh (2018), Quản lý thuế đối với thương mại điện tử tại Việt
Nam, Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Tài chính chính (tháng 4/2018);
- Trần Anh Thư, Lương Thị Minh Phương (2018), Phát triển thương mại điện tử ở
Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Tạp chí Tài chính chính (tháng 4/2018);
Lương Thị Linh
Chi - Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội
Nguyễn Hồng Hạnh - Sinh viên Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội