Đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc Quân lệnh số I - Quyết định
thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (22-12-1944) _Ảnh: Tư
liệu TTXVN
1. Quân đội nhân dân
Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Sau 80 năm xây dựng, chiến
đấu, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đội quân nhỏ bé, trang bị thô sơ đã trở thành quân
đội hùng mạnh, cùng nhân dân làm nên những chiến thắng huy hoàng, những chiến
công oanh liệt, biểu tượng của tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc
Việt Nam, niềm tự hào của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam và bạn bè yêu chuộng
hòa bình trên thế giới.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, thực
hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám
và Trần Hưng Đạo, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân với 34 chiến sĩ “quần nâu áo vải” - tiền thân của Quân đội nhân dân
Việt Nam, do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Ngay sau khi ra đời,
được sự ủng hộ, giúp đỡ, che chở của nhân dân, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân đã làm nên chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, mở đầu trang sử truyền thống
“bách chiến, bách thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
của Bác Hồ, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân cùng các đơn vị Cứu quốc
quân, các đội du kích phát triển thành Việt Nam giải phóng quân, cùng nhân dân
cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa, làm nên thành công Cách mạng Tháng Tám năm
1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, quân đội ta trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt; với ý chí quyết
chiến, quyết thắng, tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, đã cùng toàn
dân trường kỳ kháng chiến, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, âm
mưu “bình định”, “phản công” của địch, lập những chiến công hiển hách. Cuộc tiến
công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã buộc Chính phủ Pháp phải
ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương, rút quân về nước, giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, trở thành niềm tự hào, tấm gương sáng cho phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới khi lần đầu tiên một nước thuộc địa, một đội
quân non trẻ đã đánh bại quân đội nhà nghề, được trang bị vũ khí hiện đại của đế
quốc, thực dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, trước một đế quốc sừng sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh bậc nhất
thế giới, một đội quân viễn chinh chuyên nghiệp với binh hùng tướng mạnh.
Nhưng, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quân đội ta đã phát huy bản chất cách mạng, truyền thống anh hùng, với tinh thần
dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, ý chí quyết chiến, quyết thắng, thực hiện lời Bác
“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy
sinh, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”, cùng toàn dân đập tan
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến
tranh”… đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải
quân của đế quốc Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” (tháng 12-1972);
tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch
Hồ Chí Minh, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành
vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, viết nên trang sử
hào hùng, oanh liệt của thời đại Hồ Chí Minh; non sông thu về một mối, đất nước
bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập, tự do, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Không chỉ giành độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tích cực thực hiện nghĩa vụ
quốc tế cao cả, giúp nhân dân Lào bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giúp
nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, thực hiện công cuộc hồi sinh dân
tộc, chiến thắng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới
phía Bắc.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, bản
chất tốt đẹp và truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được tôi luyện qua hai cuộc kháng
chiến và chiến tranh vệ quốc tiếp tục tỏa sáng trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Quân đội nhân dân Việt Nam gương mẫu trong thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; không ngừng nỗ lực phấn đấu, đoàn kết,
thống nhất, chung sức đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cùng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống;
tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân,
không ngừng đóng góp duy trì hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Hình
ảnh cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy
hiểm, xả thân để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và làm công tác dân vận
đã tô thắm thêm phẩm chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thắt chặt mối quan hệ
đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc,
tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa;
hình ảnh những “anh bộ đội” Việt Nam trong đội quân gìn giữ hòa bình quốc tế ở
nhiều miền đất còn khói lửa chiến tranh trên thế giới đã cho thấy tầm và lực mới
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đạt được những thành tựu to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, thực hiện nghĩa vụ quốc tế trong suốt 80 năm qua là do: (i) Quân
đội nhân dân Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện
về mọi mặt của Đảng, mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân và của dân tộc Việt
Nam. (ii) Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do
dân và vì dân; dựa vào sức mạnh của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân,
luôn khát vọng cháy bỏng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; ngoài lợi
ích của Tổ quốc và lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào
khác. (iii) Mục đích xây dựng quân đội là tự vệ dân tộc, giành
độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định, đóng góp vào hòa bình, ổn định ở
khu vực và trên thế giới. Quân đội ta chiến đấu không có mục tiêu nào khác
ngoài mục tiêu thực hiện thắng lợi lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân,
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. (iv) Lớp lớp các thế hệ
cán bộ, chiến sĩ với tinh thần, ý chí thép, dũng cảm, mưu trí, không quản gian
khó, hy sinh, luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của
nhân dân và chủ nghĩa xã hội. (v) Đoàn kết, sự hỗ trợ của bạn
bè quốc tế đã góp phần tạo nên sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương gặp mặt đại
biểu thế hệ trẻ trong quân đội _Ảnh: TTXVN
2. Thế giới đang
trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại; đây cũng là thời điểm để định hình
tương lai của chúng ta. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt,
gia tăng thách thức đối với hòa bình, ổn định và phát triển của các quốc gia. Sự
biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có
nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn. Nhưng, thời cơ mới có
thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế
giới, nhiệm vụ của chúng ta là phải chớp được thời cơ đó để đưa đất nước tiến
lên. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi phương thức hoạt
động, tổ chức cách thức tiến hành chiến tranh, can dự, can thiệp của các nước
và nhiều khía cạnh khác của hoạt động quân sự, an ninh, tình báo. Các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến
hoà bình” với nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi, nguy hiểm. Bối cảnh, tình hình
trên đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để
đạt được các yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, lực lượng quân đội nhân dân
cần phát huy cao độ bản chất tốt đẹp và truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, tập trung
một số công tác, sau đây:
Thứ nhất, tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; không ngừng củng cố bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội. Sự
lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc bất biến, yêu cầu khách quan, nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, của nhiệm vụ quốc phòng; bất luận
trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Giữ vững bản chất cách mạng;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và tổ chức
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội; củng cố sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của quân đội là điều kiện bảo
đảm cho quân đội ta mãi mãi là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu thật
trong sạch, tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân
đội phải “hiếu với dân”, có trách nhiệm “phụng sự nhân dân”, “phục vụ Tổ quốc”,
tôn trọng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, đồng cam, cộng khổ với mọi
khó khăn, gian khổ của nhân dân, sẵn sàng hy sinh để cứu dân, phải làm cho dân
tin, dân phục, dân yêu, đi dân nhớ, ở dân thương. Đoàn kết thống nhất, phối hợp
chặt chẽ với công an nhân dân xây dựng, phát huy “thế trận lòng dân” trong nền
quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Thứ hai, Quân đội
nhân dân Việt Nam phải gương mẫu, đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị,
kết luận của Đảng, trước hết là Nghị quyết số 44-NQ/TW, của Ban Chấp
hành Trung ương khoá XIII, về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nắm
chắc, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu, xử lý hiệu quả các tình huống về
quốc phòng, tuyệt đối không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. Giữ vững độc
lập, tự chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm,
từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc. Tích cực tuyên truyền, vận
động, nêu gương để nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các
nhiệm vụ cách mạng; củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, huy động sức
mạnh to lớn của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, tập trung xây dựng
quân đội nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng. Triển
khai quyết liệt các giải pháp để “đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh,
gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ” theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Xây dựng quân đội hiện đại
theo tinh thần “người trước, súng sau” và chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho chiến
tranh hiện đại; tiến mạnh làm chủ không gian vũ trụ, tiến sâu nghiên cứu làm chủ
mặt nước, đại dương, đáy biển; nghiên cứu phát triển phòng không, không quân,
làm chủ vùng trời, xử lý tốt thiết bị bay không người lái trên không, trên biển,
robot đáy biển. Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, các tổ chức đảng
trong quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức
và cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội tuyệt đối “trung với nước, hiếu với
dân”, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung,
tích cực gương mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng.
Thứ tư, tăng cường
đóng góp của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu chiến lược
100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và duy trì hoà bình, ổn định ở
khu vực và trên thế giới. Thực hiện các mục tiêu chiến lược của Đảng
bên cạnh thời cơ, thuận lợi có nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta, trong đó quân đội nhân dân phải là một trong những lực
lượng nòng cốt tham mưu với Đảng, Nhà nước nắm bắt thời cơ, đẩy lùi thách thức;
quân đội nhân dân phải thực sự là “đội quân chiến đấu”, “đội quân công
tác”, “đội quân lao động, sản xuất”, trong đó phát huy hơn nữa vai trò “đội
quân lao động, sản xuất” để phát triển công nghiệp quốc phòng trong tổng thể đường
lối xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Tăng cường đóng góp của Việt Nam
trong duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới qua các hoạt động của
quân đội, trước hết là hợp tác quốc phòng để củng cố tin cậy, giảm thiểu bất đồng,
xung đột; tích cực tham gia cứu hộ, cứu nạn quốc tế, tham gia lực lượng gìn giữ
hòa bình Liên hợp quốc.
Khối Nữ lực lượng gìn giữ hòa bình của Quân đội nhân dân
Việt Nam diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ _Nguồn:
tuoitre.vn
Với những chiến công chói lọi, với
những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong suốt 80 năm qua, với bản chất cách mạng và truyền thống “Bộ đội
cụ Hồ”, quân đội ta xứng đáng là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh
hùng, là niềm tự hào của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng
hòa bình, tự do và công lý trên toàn thế giới./.
TÔ LÂM
Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Bí thư Quân ủy Trung
ương
Nguồn:
tapchicongsan.org.vn