Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với các cử tri
tỉnh Hưng Yên, ngày 2-7-2024 _Ảnh: Tư liệu
Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu
tiên được V.I. Lê-nin nêu ra năm 1922. Từ những năm 1925 - 1927, trong cuốn “Đường
Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu về đảng cầm quyền. Bác coi vấn đề Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm
quyền của Đảng; Đảng giữ trọng trách to lớn đó vì mục đích của Đảng không có gì
khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ
tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(1), “ngoài
lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”(2), “Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(3).
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền”(4). Về cách lãnh đạo, trong
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành riêng một mục nói về
vấn đề này. Người đã đặt câu hỏi: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?”(5) và
trả lời: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một
cách cho đúng…”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…”. 3) Phải tổ chức sự kiểm
soát…”(6); và để làm cho đúng cả 3 việc, theo Người,
đều phải dựa vào dân.
Trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề
cập “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”(7),
nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng
với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”(8). Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định
phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất
vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng
không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”(9); “Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10). Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định “Đảng lãnh đạo theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo
thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo
bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm
tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm
phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà
nước”(11). Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều tiếp
tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng; Đại hội
XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện mới”(12). Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực
hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hội nghị
Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022 về tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị
trong giai đoạn mới. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng
sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng,
Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng với
phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học, thường xuyên được đổi mới
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói
chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng đã lập nhiều kỳ tích, đạt được thành tựu vĩ
đại. Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm
đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt
Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong
Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 FTA gắn kết với 60
nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Từ một đất nước bị bao vây cô lập,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp
quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó
có tất cả các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực
và quốc tế. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được
Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm
sáng về xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của người dân.
Đồng thời, đã hình thành thể chế
chính trị ổn định với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng qua nhiều lần kiện toàn, từng bước định hình,
đang tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại. Hệ thống chính trị, nòng cốt là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng,
hoàn thiện, khẳng định vai trò quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã
hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân
dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính
ưu việt, được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng,
ủng hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Vẫn còn tình trạng ban hành
nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ
sung, sửa đổi, thay thế. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được
thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình
tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ;
phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị
vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định,
dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Cải
cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp
vẫn nhiều.
2. Để tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, bảo
đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ; một số công
tác trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức
và thực hiện cho nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối
không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng
lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng,
đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và
phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động, thuyết phục nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại biểu ưu tú vào bộ máy
nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng cầm quyền bằng pháp luật,
lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật.
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về
chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản
lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để bảo đảm quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo
toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
thăm hỏi, động viên công nhân, người lao động trên công trường tuyến đường Đông
- Tây, tỉnh Ninh Bình _Nguồn: chinhphu.vn
Thứ hai, tập trung tinh gọn bộ
máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng
tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ
quan tham mưu của cấp ủy thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính
trị, có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm
và thông thạo công việc. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham
mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng
và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của
các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện
làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối
làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc
bài”.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ việc
ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ
sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của
các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu,
dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức
phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải
có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự
phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng
viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện nghị quyết
của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận thức, tự
thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập trung xây dựng
chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đưa chủ
trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới công
tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số
trong các hoạt động của Đảng. Đảng kiểm tra, giám sát để công việc được
thực hiện tốt hơn, nghị quyết được thực hiện hiệu quả; bộ máy của Đảng, Nhà nước
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng việc;
kịp thời phát hiện nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo; uốn nắn, điều chỉnh những
biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy cao độ vai trò kiểm tra,
giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Ban hành Quy định phân cấp
thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng
kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chuyển đổi số trong công
tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của
Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị
nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
V.I. Lê-nin đã dạy: “Khi
tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì
không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”.
Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở kiên định các nguyên tắc của Đảng;
thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và
có nguyên tắc, không bao giờ lung lay trước những khó khăn, thử thách của cách
mạng”./.
TÔ LÂM
Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
-------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.5
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 290
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.
289
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr.
622
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.
325
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.
325
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 301
(8) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr. 301
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.
329
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.
330
(11) Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 438, 439
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 196