Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với các đại biểu
trí thức dự Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3-1964)_Nguồn: TTXVN
Các chỉ dẫn quan trọng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong công tác chỉnh huấn đội ngũ cán bộ, đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân
lý nhất định”(1); do đó, công tác chỉnh huấn cán bộ là khâu then chốt
nhằm xây dựng Đảng ngày càng tiến bộ, vững mạnh. Khi trả lời câu hỏi Chỉnh
huấn là gì? Nhằm mục đích gì? Người đã khái quát hết sức
ngắn ngọn rằng: “Chỉnh huấn là để trừ bỏ khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(2) trong
từng cán bộ, đảng viên và trong toàn Đảng; đây là luận giải sâu sắc, toàn diện
về mục đích, nội dung, phương thức chỉnh huấn cán bộ, là lời căn dặn dễ nhớ, dễ
thực hiện và đem lại hiệu quả cao. Như vậy, theo Người, công tác chỉnh huấn phải
hướng tới hoàn thành “mục tiêu kép”, vừa gột rửa, trừ bỏ mọi thói hư, tật xấu,
khuyết điểm, vừa phát triển thêm ưu điểm, tiềm năng mỗi người để hoàn thành mục
đích cao cả mà Đảng và nhân dân giao phó.
Trong hoạt động công vụ, nếu lập
trường, tư tưởng của cán bộ chưa vững chắc thì dễ mắc khuyết điểm, sai lầm cơ bản,
như sa vào chủ nghĩa cá nhân, tự tư tự lợi, sợ khó, sợ khổ, ham địa vị, danh tiếng,
lãng phí, tham ô, quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền,... Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, cần tập trung “chỉnh huấn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ”(3);
đồng thời, công tác chỉnh huấn phải nhằm “nâng cao trình độ tư tưởng và chính
trị của cán bộ và đảng viên, tẩy bỏ tư tưởng phi vô sản và tiểu tư sản, thống
nhất tư tưởng, thống nhất hành động, đoàn kết toàn Đảng để Đảng làm tròn nhiệm
vụ nặng nề và vẻ vang của mình”(4).
Về tính tất yếu của nhiệm vụ
chỉnh huấn cán bộ, đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định chỉnh huấn cán bộ là khâu đầu tiên, nhưng mang tính chất quyết định trong
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; trong quá khứ, khi đất nước đạt nhiều chiến
thắng trên chiến trường, nhưng trình độ chính trị toàn Đảng chưa được nâng cao,
lập trường giai cấp còn thiếu vững chắc, cán bộ công nông chưa được cất nhắc
đúng mức, Người đã bày tỏ: “Đảng và Chính phủ đặt việc chỉnh huấn là một công
việc chính”(5). Tiếp đó, trong Bài nói chuyện trong buổi
khai mạc Lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan Trung ương (ngày
6-2-1953), Người giải thích thêm rằng: “Nếu Đảng đã thập toàn thập mỹ thì tại
sao lại phải chỉnh? Là vì có số đông đảng viên gương mẫu, tận tâm tận lực phục
vụ cách mạng, nhân dân, giai cấp, nhưng còn một số, không phải là ít, không làm
đúng chính sách của Đảng, của Chính phủ, không đi đúng đường lối của nhân dân,
còn tếu”(6). Người cũng đặt câu hỏi vì sao phải chỉnh huấn và trực
tiếp đưa ra câu trả lời thỏa đáng: “Vì mỗi người hoặc nhiều hoặc ít, có ưu điểm
nhưng cũng có khuyết điểm. Vì có khuyết điểm nên phải chỉnh huấn để sửa chữa,
cũng như người ốm phải chữa bệnh”(7). Như vậy, theo Người, chỉnh huấn
cán bộ, đảng viên là điều kiện tiên quyết để chỉnh đốn Đảng, góp phần để “Đả#ng
ta là đạ#o đức, là văn minh”(8).
Công tác chỉnh huấn phải diễn
ra như thế nào?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉnh
huấn cán bộ, đảng viên phải được tiến hành theo đúng quy trình chặt chẽ, khoa học,
thống nhất; phải tạo được đột phá ở các khâu quan trọng với phương thức đúng đắn,
phù hợp nhằm hướng tới hiệu quả cao nhất. Trong Thư gửi các lớp chỉnh
huấn cơ quan (tháng 6-1953), Người viết: “Chỉnh huấn là cốt
để giúp cán bộ nâng cao tư tưởng cách mạng, củng cố lập trường, rửa gột khuyết
điểm, phát triển ưu điểm”(9); Người cũng xác định, muốn có kết quả
thiết thực trong công tác chỉnh huấn, phải chú trọng hai vấn đề: 1- Mở rộng dân
chủ: thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình; 2- Chống thái độ rụt rè, nể nả
giữa cấp dưới và cấp trên, giữa công nông và trí thức, giữa cán bộ ngoài Đảng
và trong Đảng(10).
Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ, cần căn cứ vào nhiệm vụ trước mắt, cấp thiết và cả lâu dài, mang tính
chiến lược của công cuộc cách mạng; đồng thời, dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể,
đặc thù từng lực lượng và vị trí, vai trò mỗi người cán bộ để tiến hành chỉnh
huấn. Đối với cán bộ cao cấp của Đảng, Người căn dặn: “Chỉnh huấn cán bộ cao cấp
phải do Trung ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn
Đảng”(11). Đối với cán bộ cao cấp trong quân đội, Người cho rằng:
“phải tiến hành chỉnh huấn chính trị, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của
toàn quân lên một bước mới; tiến hành phê bình và tự phê bình, khắc phục những
nhận thức, tư tưởng mơ hồ lệch lạc; tiến tới một bước làm cho trình độ chính trị,
tư tưởng của quân đội phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng nói chung và
nhiệm vụ xây dựng quân đội nói riêng”(12).
Mặt khác, nhằm nâng cao chất lượng
công tác chỉnh huấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Tiến hành chỉnh huấn phải nắm
vững phương châm giáo dục nâng cao tư tưởng vô sản, khắc phục tư tưởng sai lầm,
biểu dương ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm bằng cách kiên nhẫn giáo dục thuyết phục,
phát huy tinh thần tự giác của mỗi người”(13). Tóm lại, cán bộ phụ
trách cơ quan phải chú trọng lãnh đạo việc chỉnh huấn; mặt khác, người dự lớp
chỉnh huấn thì phải quyết tâm học tập, cải thiện toàn diện các phẩm chất cá
nhân, đồng thời giúp đỡ đồng chí khác cùng học tập, công tác tốt. Thêm vào đó,
phải chú trọng việc bồi dưỡng, giữ vững nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin để lấy
đó làm kim chỉ nam hướng dẫn, soi đường trong sự nghiệp, rằng “có thể tránh được
biết bao bế tắc, sai lầm và biết bao thất bại đau đớn, nếu chúng ta có thể cung
cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo
điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác”(14).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định
phải có tinh thần học là cốt để hành; cán bộ cần ghi nhớ và quyết tâm thực hành
những điều đã học trong lớp chỉnh huấn, nhất là chú trọng thực hiện hiệu quả
các nội dung cơ bản sau: 1- Đoàn kết nội bộ trong cơ quan, giữ gìn kỷ luật cách
mạng; 2- Giữ vững lập trường, dùi mài tư tưởng; 3- Nâng cao tinh thần trách nhiệm,
kiên quyết vượt mọi khó khăn; 4- Toàn tâm toàn lực phụng sự nhân dân, phụng sự
kháng chiến; 5- Luôn luôn thật thà tự phê bình và phê bình, luôn luôn học tập để
tiến bộ; 6- Gây phong trào chống quan liêu, lãng phí, tham ô(15).
Thực tiễn triển khai công tác
chỉnh huấn của Đảng qua các giai đoạn cách mạng
Giai đoạn trước Cách mạng Tháng
Tám (năm 1945), khi Đảng ta chưa cầm quyền lãnh đạo toàn diện đất nước, vấn đề
“chỉnh huấn” chưa được đặt ra một cách trực tiếp, cấp bách nhất, do đó, thuật
ngữ “chỉnh huấn” chưa xuất hiện trong các văn kiện của Đảng. Đến ngày
10-10-1950, trong Thông cáo của Thường vụ Trung ương, “Về những nhiệm vụ trước
mắt sau chiến thắng Đông Khê”, lần đầu tiên thuật ngữ “chỉnh huấn”
được sử dụng, cụ thể Thông cáo chỉ rõ: “Cán bộ, quân, chính, dân tham gia tác
chiến trên đường số 4 cần chuẩn bị để khi kết thúc chiến dịch mở một cuộc phê
bình và tự phê bình tổng kết kinh nghiệm, rút ra những bài học quý báu của chiến
trường, đặng tiến hành việc chỉnh huấn sau chiến dịch cho có hiệu quả và chuẩn
bị hội nghị quân chính toàn quốc”(16). Kế đó, trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (họp từ ngày
27-9 đến 5-10-1951), “Về nhiệm vụ quân sự trước mắt”, Đảng ta chủ trương: “phải
củng cố sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nắm vững sự lãnh đạo tư tưởng
trong toàn quân, lãnh đạo việc học tập tư tưởng mới, học tập chủ trương chính
sách của Đảng và Chính phủ, sửa chữa những sai lầm đã bộc lộ trong cuộc chỉnh
huấn vừa qua”(17).
Kể từ đó đến trước tháng 12-1951,
vấn đề chỉnh huấn được Đảng ta triển khai chủ yếu đối với đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong Quân đội và đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng; đồng
thời nhận thức về vai trò, ý nghĩa của công tác chỉnh huấn ngày càng được nâng
lên, đặt ra yêu cầu cấp thiết mở rộng công tác chỉnh huấn trong toàn Đảng. Vì vậy,
Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 29-12-1951, của Ban Bí thư, “Về cuộc vận động chấn chỉnh
Đảng” được ban hành, xác định nội dung, mục đích công tác chỉnh huấn cán bộ,
trong đó, cuộc vận động chấn chỉnh Đảng tập trung vào hai đối tượng cơ bản, cụ
thể: 1- Đối với cán bộ thì tiến hành một cuộc học tập chỉnh huấn ngắn kỳ, làm
cho cán bộ nhận rõ tình hình và nhiệm vụ, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm của
mình; quyết tâm phấn đấu trường kỳ gian khổ và quyết tâm khắc phục khó khăn, hạn
chế...; 2- Đối với đảng viên ở các chi bộ nông thôn thì vừa tiến hành học tập
chỉnh huấn ngắn kỳ, vừa chỉnh đốn tổ chức nhằm giáo dục đảng viên nhận thức rõ
và thực hiện đúng nhiệm vụ của mình đối với Đảng, quốc gia, đối với kháng chiến
và nhân dân,... Theo đó, hai nhiệm vụ trên có sự khác nhau, nhưng liên quan mật
thiết với nhau: Chỉnh huấn cán bộ thành công thì mới chỉnh đốn chi bộ nông thôn
hiệu quả, có chỉnh đốn chi bộ nông thôn kết quả thì mới hoàn thành nhiệm vụ của
đợt chấn chỉnh Đảng. Nhưng chỉnh huấn cán bộ đóng vai trò nền tảng, phải được
triển khai thực hiện đến nơi đến chốn trước(18).
Cụ thể hóa nội dung của công tác
chỉnh huấn, lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng ta ban hành một chỉ thị “chuyên đề”
về nhiệm vụ này, đó là Chỉ thị số 146-CT/TW, ngày 4-7-1959, của Ban Bí thư, “Về
kế hoạch chỉnh huấn cán bộ, đảng viên”, qua đó xác định mục đích chung của chỉnh
huấn cán bộ, đảng viên là “làm cho mỗi người thấm nhuần đường lối, chính sách cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đường lối đấu
tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước”(19). Đến
ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, “Về cuộc vận động
chỉnh huấn mùa Xuân 1961” - cuộc chỉnh huấn lớn nhất về tư tưởng kể từ khi hòa
bình được lập lại ở miền Bắc nhằm tích cực bồi dưỡng và xây dựng tư tưởng mới
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động, góp phần khắc phục tư tưởng sai lầm
đang cản trở sự nghiệp cách mạng. Sau đó, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Chỉ thị
số 88-CT/TW, ngày 2-1-1965, “Về cuộc vận động, chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965”
trong toàn Đảng nhằm bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công
nhân, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân(20).
Lần gần đây nhất Đảng ta dùng từ
“chỉnh huấn” là trong bài diễn văn tại Lễ kỷ niệm 77 năm Ngày thành lập Đảng và
Phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
(ngày 2-2-2007), qua đó khẳng định giá trị bền vững trong quan điểm, tâm huyết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối sự nghiệp giáo dục, đào tạo đội ngũ cách mạng, cụ
thể: “Từ các lớp huấn luyện chính trị... đến các lớp huấn luyện cán bộ, các lớp
chỉnh huấn trong kháng chiến, các lớp bồi dưỡng đảng viên mới sau hòa bình,
v.v. không lúc nào Người không đặt lên hàng đầu công việc giáo dục, đào tạo cán
bộ. “Đường kách mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc” và các bài nói chuyện của Bác ở
các lớp huấn luyện, lớp chỉnh huấn,... trước đây, cho đến nay vẫn là những lời
dạy đầy tâm huyết, tiếp tục ngân vang, gợi mở trong tư duy và tâm hồn mỗi người
chúng ta”(21).
Kể từ đây, công tác chỉnh huấn
cán bộ, đảng viên được lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, hướng đến mục đích toàn diện
hơn, góp phần xây đi đối với chống, đồng thời thuật ngữ “chỉnh huấn” hay “chỉnh
huấn trong Đảng” cũng được “mặc định” thuộc nội hàm công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Theo đó, Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về Đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” xác
định một trong bảy nhiệm vụ chính là “thường xuyên làm tốt công tác chính trị,
tư tưởng, nhất là công tác thông tin, tuyên truyền”. Đây là sự kế thừa chủ
trương, tinh thần nhất quán trong mục đích công tác chỉnh huấn cán bộ, đảng
viên từ nội dung của Chỉ thị số 146-CT/TW, ngày 4-7-1959, của Ban Bí thư, “Về kế
hoạch chỉnh huấn cán bộ, đảng viên” được ban hành khoảng 65
năm về trước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIV sẽ diễn ra trong hoàn cảnh Việt Nam trải qua 40 năm tiến hành đổi mới (dự
kiến được tổ chức vào tháng 1-2026), khi mà “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(22). Đây
là sự kiện chính trị đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đánh dấu
truyền thống 96 năm thành lập và lèo lái con thuyền cách mạng dân tộc đầy vẻ
vang của Đảng, 40 năm Đảng lãnh đạo đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới;
đặc biệt, khởi đầu giai đoạn “bản lề” để hiện thực hóa mục tiêu “đến năm 2030,
là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn
đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(23). Tại Đại
hội XIII, Đảng ta xác định, cần “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(24);
đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu,
toàn tâm, toàn ý với công việc. Như vậy, hơn lúc nào hết, việc vận dụng chỉ
dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác chỉnh huấn cán bộ là tất yếu, có ý
nghĩa then chốt, nhất là trong bối cảnh trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIV của Đảng.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chấp hành Đảng bộ
thành phố Hải Phòng, ngày 14-11-2024_Ảnh: TTXVN
Một số giải pháp trong công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay theo quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên
Thứ nhất, kiên quyết thực
hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong xây dựng nền đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, triển khai công tác chỉnh huấn cán
bộ trong thực tiễn(25); đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cần có sự tuyển chọn,
chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo
đức của cán bộ, công chức từ cấp thấp đến cấp cao. Tiếp tục vận dụng, bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn; đặc biệt, cần nghiêm
túc, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đẩy mạnh công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là mô hình mới, kinh nghiệm
hay(26).
Ph. Ăng-ghen từng phân tích: “Lý
luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều
mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(27); tiếp
đó, năm 1910, lãnh tụ V.I. Lê-nin đã khẳng định lại tuyên bố của Ph. Ăng-ghen,
rằng “Học thuyết của chúng tôi - Ăngghen nói về mình và người bạn nổi tiếng của
mình - không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành động”(28) và
căn dặn nếu chúng ta quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở
thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy
cơ sở lý luận cơ bản của nó - tức là phép biện chứng”(29). Là một
trong hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng, chỉnh đốn Đảng cũng luôn được nghiên cứu, vận dụng và phát triển,
trong đó cần tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị bền vững, đồng thời vận
dụng sáng tạo chỉ dẫn quý báu của Người về sự cần thiết, nội dung, nguyên tắc,
quy trình, phương thức,... trong triển khai công tác chỉnh huấn cán bộ. Một mặt,
phải bảo vệ tính khoa học, cách mạng trong quan điểm, chỉ dẫn của Người; mặt
khác, phải không ngừng phát triển lý luận cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, cấp ủy, tổ
chức đảng các cấp phải chủ động lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức
triển khai thực hiện hiệu quả kế hoạch chỉnh huấn cán bộ thuộc diện quản lý.
Quá trình triển khai cần lựa chọn những nội dung có tính quyết định, đột phá hoặc
những mặt yếu, hạn chế và triển khai theo quy trình khoa học, bài bản từ trên
xuống dưới, từ cấp cao đến cấp cơ sở. Đặc biệt, cần quan tâm chỉnh huấn về khía
cạnh chính trị, tư tưởng, vì: “Nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật
khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng”(30) và “Chính trị
phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được”(31);
hơn nữa, khi “Địch, bạn rõ ràng, phải, trái rõ ràng, đen, trắng rõ ràng, thì lập
trường và tư tưởng cũng rõ ràng”(32).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng tích lũy kinh nghiệm, chủ
động đổi mới trong công tác chỉnh huấn cán bộ; do đó, từ rất sớm, Đảng ta chỉ
rõ: Công tác chỉnh huấn cũng như mọi công tác quan trọng khác, muốn đạt hiệu quả,
thành tựu tốt đẹp, phải tiến hành có kế hoạch từ trên xuống, từ trong ra ngoài;
nghĩa là phải chỉnh huấn cán bộ trước vì cán bộ là người chỉ đạo, cán bộ chuẩn
chỉnh thì mới có thể chỉnh đốn được các tổ chức hạ tầng. Theo đó, muốn phát động
phong trào chỉnh huấn rộng rãi cho tất cả cán bộ, đảng viên, cần chỉnh đốn chi
bộ trước rồi mới chỉnh huấn cán bộ, đảng viên ngoài Đảng. Đảng viên phải không
ngừng hoàn thiện, nâng cao phẩm chất đạo đức, giữ vững lập trường, tư tưởng thì
mới được quần chúng tín nhiệm và đủ khả năng đảm nhiệm công tác chỉnh huấn cán
bộ, có như vậy, mục đích của chỉnh huấn hiện nay mới “có kết quả tốt đẹp”.
Thứ ba, chủ động,
tích cực nghiên cứu, tổ chức các “lớp chỉnh huấn” trước thềm Đại hội XIV của Đảng
trên tinh thần bảo đảm chặt chẽ, đúng quy trình, chất lượng và hiệu quả thiết
thực. Với tư cách vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của chỉnh huấn, mọi cán bộ,
nhất là cán bộ cấp chiến lược phải “thành khẩn học tập, thật thà tự phê bình và
phê bình, hấp thụ thêm kinh nghiệm và đạo đức cách mạng. Sau khi chỉnh huấn
xong thì thi đua giúp Trung ương chỉnh huấn toàn Đảng, toàn quân và chỉnh đốn
công tác quần chúng”(33); phải coi việc tham gia lớp chỉnh huấn là
vinh dự, là trách nhiệm chính trị của người cán bộ trước Đảng, trước nhân dân để
nỗ lực không ngừng tiến bộ, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong lúc các cô,
các chú đi chỉnh huấn thì biết bao nhiêu cán bộ cũng mong muốn được đi chỉnh huấn
như các cô, các chú. Nhưng vì các cô, các chú đi, công việc của các cô, các chú
họ phải gắng sức làm thay, nên họ không đi được. Họ ở nhà luôn luôn mong mỏi
các cô, các chú tiến bộ”(34).
Cùng với đó, phải thực hiện tốt
quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy
quyền; thực hiện nghiêm kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật
đối với cán bộ vi phạm, góp phần “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng
đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật,
dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo,...”(35);
nêu cao tinh thần “Phê phán, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức
thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu
dân”(36),...
Thứ tư, chú trọng
phòng, chống biểu hiện tiêu cực, thiếu nhiệt huyết, trách nhiệm trong quá trình
triển khai công tác chỉnh huấn. Phải luôn khắc cốt ghi tâm và triệt để khắc phục
ba khuynh hướng sai trái khi học tập được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: 1-
Khuynh hướng chẻ sợi tóc làm đôi, tranh luận nhau từng danh từ,
không chú ý nội dung của vấn đề...; 2- Một lòng nén không tiêu (ăn vào rất nhiều
mà tiêu không được), nghĩa là nghiên cứu tài liệu thì phải suy đi nghĩ lại kỹ
càng, áp dụng thế nào cho đúng; 3- Tự mãn: Tự cho mình là học nhiều, biết nhiều.
Đó là bệnh nguy hiểm nhất(37). Đồng thời, kiên quyết xử lý cán bộ có
tâm lý muốn “đánh trống, ghi tên”, lấy việc tham gia chỉnh huấn là hình thức,
thực chất là “xả hơi”; chấn chỉnh kịp thời mọi biểu hiện thiếu ý thức, trách
nhiệm cả trước, trong và sau chỉnh huấn của cán bộ./.
TS HÀ SƠN THÁI - TS
NGUYỄN DUY TIÊN
Thượng tá, Tổng cục
Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Đại tá, Học viện Chính trị, Bộ Quốc
phòng
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 280
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 492
(3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr.
398, 398, 389
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 50,
215
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 403
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 156 -
157
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 398
(12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 549
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 113
(15) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 145
(16) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, t. 11, tr. 499
(17) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 590
(18) Xem: “Ban Bí thư ra Chỉ thị về cuộc vận động chấn chỉnh Đảng”, Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 27-4-2020, https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tuyen-giao/thong-tin-tu-lieu/ban-bi-thu-ra-chi-thi-ve-cuoc-van-dong-chan-chinh-dang-553644.html
(19) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2002, t. 20, tr. 586
(20) Xem: Đặng Minh Phụng - Lê Tuấn Vinh: “Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng về
tư tưởng - nhìn từ các cuộc vận động chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc Việt Nam (1954 -
1975)”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 14-11-2022, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/826314/view_content
(21) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2017, t. 66, tr. 1024
(22), (23), (24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 217 - 218, 187
(25) Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của
Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”; Kết luận số
21-KL, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý
nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn diến”, “tự chuyển hóa””; Kết luận số 14-KL/TW, ngày
22-9-2021, của Bộ Chính trị, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng
động, sáng tạo vì lợi ích chung”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ
Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”,...
(26) Xem: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Ban Chấp hành Trung
ương, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ””
(27) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999, t. 36, tr. 796
(28) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005, t. 20, tr. 99
(29) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 99
(30) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 219
(31) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 166
(32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 141
(33), (34) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 415,
495
(35), (36) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd,
t. I, tr. 187, 192
(37) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 494